Nature


Main page | Jari's writings | Other languages

This is a machine translation made by Google Translate and has not been checked. There may be errors in the text.

   On the right, there are more links to translations made by Google Translate.

   In addition, you can read other articles in your own language when you go to my English website (Jari's writings), select an article there and transfer its web address to Google Translate (https://translate.google.com/?sl=en&tl=fi&op=websites).

                                                            

 

Khủng long sống khi nào?

 

 

T́m hiểu tại sao khủng long sống trong quá khứ gần đây, cùng thời với con người. Hàng triệu năm dễ dàng bị đặt câu hỏi dựa trên bằng chứng

 

                                                    

Niềm tin phổ biến là khủng long đă thống trị Trái đất trong hơn 100 triệu năm cho đến khi chúng tuyệt chủng cách đây 65 triệu năm. Vấn đề này đă được nhấn mạnh liên tục thông qua các tài liệu và chương tŕnh tiến hóa, v́ vậy ư ​​tưởng về loài khủng long sống trên trái đất hàng triệu năm trước đă khắc sâu vào tâm trí của hầu hết mọi người. Không thể coi những con khổng lồ này (Kích thước chỉ là tương đối. Cá voi xanh ngày nay nặng gấp đôi loài khủng long lớn nhất)động vật sống trong quá khứ rất gần đây và cùng thời với con người. Theo thuyết tiến hóa, người ta cho rằng khủng long sống ở kỷ Jura và kỷ Phấn trắng, động vật ở kỷ Cambri thậm chí c̣n sớm hơn và động vật có vú xuất hiện trên Trái đất sau cùng. Khái niệm tiến hóa về những nhóm xuất hiện trên hành tinh này vào những thời điểm khác nhau ăn sâu vào tâm trí con người đến mức họ tin rằng nó đại diện cho khoa học và là sự thật, mặc dù có thể t́m thấy nhiều sự thật chống lại khái niệm này.

    Tiếp theo, chúng ta sẽ khám phá chủ đề này chi tiết hơn. Nhiều bằng chứng cho thấy khủng long xuất hiện trên trái đất không lâu lắm. Chúng tôi xem xét những bằng chứng tiếp theo.

 

Hóa thạch khủng long được xem xét . Bằng chứng cho thấy khủng long đă sống trên trái đất là hóa thạch của chúng. Dựa vào chúng, có thể biết đại khái kích thước và ngoại h́nh của khủng long và chúng có phải là động vật có thật hay không. Không có lư do ǵ để nghi ngờ tính lịch sử của chúng.

    Tuy nhiên, việc xác định niên đại của khủng long lại là một vấn đề khác. Mặc dù theo biểu đồ thời gian địa chất được lập vào thế kỷ 19, khủng long đă tuyệt chủng cách đây 65 triệu năm, nhưng không thể đưa ra kết luận như vậy dựa trên hóa thạch thực tế. Hóa thạch không có nhăn về tuổi của chúng và khi chúng bị tuyệt chủng. Thay vào đó, t́nh trạng tốt của các hóa thạch cho thấy rằng đó là vấn đề của hàng ngh́n năm chứ không phải hàng triệu năm. Đó là do những lư do sau:

 

Xương không phải lúc nào cũng hóa đá . Hóa thạch hóa đá đă được t́m thấy từ khủng long, nhưng cũng có xương không hóa đá. Nhiều người có ư tưởng rằng tất cả các hóa thạch khủng long đều bị hóa đá và do đó cổ xưa. Hơn nữa, họ cho rằng quá tŕnh hóa đá phải mất hàng triệu năm.

    Tuy nhiên, hóa đá có thể là một quá tŕnh nhanh chóng. Trong điều kiện pḥng thí nghiệm, người ta đă có thể tạo ra gỗ hóa đá trong vài ngày. Trong điều kiện thích hợp, chẳng hạn như trong suối nước nóng giàu khoáng chất, xương cũng có thể hóa đá trong ṿng vài tuần. Các quá tŕnh này không cần hàng triệu năm.

    Vậy là xương khủng long chưa hóa đá đă được t́m thấy. Một số hóa thạch khủng long có thể c̣n lại phần lớn xương ban đầu và chúng có thể có mùi thối. Một nhà cổ sinh vật học tin vào thuyết tiến hóa đă nói về một địa điểm phát hiện hóa thạch khủng long lớn rằng "tất cả xương ở Hell Creek đều bốc mùi". Làm sao xương có thể bốc mùi sau hàng chục triệu năm?

   Ấn phẩm khoa học cho biết C. Barreto và nhóm làm việc của ông đă nghiên cứu xương của những con khủng long non như thế nào (Science, 262:2020-2023), không bị hóa đá. Xương ước tính 72-84 triệu năm tuổi có cùng tỷ lệ hàm lượng canxi và phốt pho như xương ngày nay. Ấn phẩm ban đầu tiết lộ các chi tiết hiển vi được bảo quản tốt của xương.

    Chỉ có ít xương hóa đá cũng được t́m thấy ở các vùng phía bắc như Alberta và Alaska ở Canada. Tạp chí Cổ sinh vật học (1987, Tập 61, Số 1, trang 198-200) báo cáo một khám phá như vậy:

 

Một ví dụ thậm chí c̣n ấn tượng hơn đă được t́m thấy ở bờ biển phía bắc Alaska, nơi hàng ngàn bộ xương gần như hoàn toàn không bị hóa đá. Xương trông giống như xương ḅ già. Những người khám phá đă không báo cáo khám phá của họ trong hai mươi năm v́ họ cho rằng chúng là xương ḅ rừng chứ không phải xương khủng long.

 

Một câu hỏi hay là làm thế nào mà xương được bảo tồn trong hàng chục triệu năm? Vào thời khủng long, khí hậu ấm áp nên hoạt động của vi sinh vật chắc chắn sẽ phá hủy xương. Thực tế là xương không bị hóa đá, được bảo quản tốt và trông giống như xương tươi cho thấy thời gian ngắn hơn là dài.

 

Các mô mềm . Như đă nêu, hóa thạch không có thẻ về tuổi của chúng. Không ai có thể nói chắc chắn rằng các sinh vật được t́m thấy dưới dạng hóa thạch đă tồn tại trên Trái đất ở giai đoạn nào. Điều này không thể được suy luận trực tiếp từ hóa thạch.

    Tuy nhiên, khi nói đến các phát hiện hóa thạch khủng long, một quan sát đáng chú ư là một số hóa thạch được bảo quản tốt. Ví dụ, Yle uutiset đă báo cáo vào ngày 5 tháng 12 năm 2007: "Cơ và da khủng long đă được t́m thấy ở Hoa Kỳ." Tin tức này không phải là tin tức duy nhất thuộc loại này, nhưng có rất nhiều tin tức và quan sát tương tự. Theo một báo cáo nghiên cứu, các mô mềm đă được phân lập từ khoảng mỗi xương khủng long thứ hai từ kỷ Jura (145,5 – 199,6 triệu năm tiến hóa trước) (1). Hóa thạch khủng long được bảo quản tốt thực sự là một câu đố lớn nếu chúng có từ hơn 65 triệu năm trước.

    Một ví dụ điển h́nh là một hóa thạch khủng long gần như hoàn chỉnh được t́m thấy trong mỏ đá vôi Pietraroia ở miền Nam nước Ư, theo thuyết tiến hóa được coi là 110 triệu năm tuổi, nhưng vẫn c̣n sót lại các mô gan, ruột, cơ và sụn. Ngoài ra, một chi tiết đáng kinh ngạc trong khám phá là phần ruột được bảo quản, nơi vẫn có thể quan sát được các mô cơ. Theo các nhà nghiên cứu, ruột trông giống như vừa được cắt ra! ( TREE, 8/1998, Tập 13, Số 8, tr. 303-304)

    Một ví dụ khác là hóa thạch của thằn lằn bay (chúng là loài thằn lằn bay lớn) được t́m thấy ở Araripe, Brazil, được bảo quản tốt chưa từng có. Nhà cổ sinh vật học Stafford House của Đại học London đă phát biểu về những phát hiện hóa thạch này (Discover 2/1994):

 

Nếu sinh vật đó đă chết cách đây 6 tháng, được chôn cất và đào lên, nó sẽ trông giống như thế này. Nó hoàn toàn hoàn hảo về mọi mặt.

 

V́ vậy, những phát hiện mô mềm được bảo quản tốt đă được làm từ khủng long. Những phát hiện này rất giống với những ǵ đă được tạo ra từ voi ma mút, loài được cho là đă chết cách đây chỉ vài thiên niên kỷ.

    Một câu hỏi hay là, làm thế nào có thể xác định hóa thạch khủng long già hơn nhiều lần so với hóa thạch voi ma mút, nếu cả hai đều được bảo quản tốt như nhau? Không có cơ sở nào khác cho điều này ngoài biểu đồ thời gian địa chất, thứ đă được phát hiện là mâu thuẫn với những ǵ có thể quan sát được trong tự nhiên nhiều lần. Đă đến lúc từ bỏ biểu đồ thời gian này. Rất có thể khủng long và voi ma mút sống trên trái đất cùng một lúc.

 

Các protein như albumin, collagen và osteocalcin đă được t́m thấy trong phần c̣n lại của khủng long. Các protein elastin và laminin rất dễ vỡ cũng đă được t́m thấy [Schweitzer, M. và 6 người khác, Đặc tính phân tử sinh học và tŕnh tự protein của loài khủng long mỏ vịt Campanian B. canadensis, Science 324 (5927): 626-631, 2009]. Điều làm cho những khám phá này trở nên rắc rối là những chất này không phải lúc nào cũng được t́m thấy ngay cả trong hóa thạch động vật từ thời hiện đại. Ví dụ, trong một mẫu xương voi ma mút, được ước tính là 13.000 năm tuổi, tất cả collagen đă biến mất (Science, 1978, 200, 1275). Tuy nhiên, collagen đă được phân lập từ hóa thạch khủng long. Theo tạp chí chuyên nghiệp Biochemist, collagen không thể được bảo quản dù chỉ trong ba triệu năm ở nhiệt độ lư tưởng là 0 độ C (2) . Thực tế là những phát hiện như vậy xảy ra lặp đi lặp lại cho thấy rằng hóa thạch khủng long có tuổi đời nhiều nhất là vài thiên niên kỷ. Việc xác định tuổi dựa trên biểu đồ thời gian địa chất không phù hợp với những khám phá hiện tại.

 

Mặt khác, người ta biết rằng các phân tử sinh học không thể được bảo tồn trong hơn 100.000 năm (Bada, J et al. 1999. Bảo tồn các phân tử sinh học quan trọng trong hồ sơ hóa thạch: kiến ​​thức hiện tại và những thách thức trong tương lai. Giao dịch triết học của Hiệp hội Hoàng gia B: Khoa học Sinh học. 354, [1379 ]). Đây là kết quả nghiên cứu của khoa học thực nghiệm. Collagen, là một phân tử sinh học của mô động vật, tức là một loại protein cấu trúc điển h́nh, thường có thể được phân lập từ hóa thạch. Người ta biết về loại protein được đề cập rằng nó bị phân hủy nhanh chóng trong xương và chỉ có thể nh́n thấy phần c̣n lại của nó sau 30.000 năm, ngoại trừ trong điều kiện đặc biệt rất khô. Khu vực Hell Creek chắc chắn thỉnh thoảng sẽ có mưa. Do đó, không nên t́m thấy collagen trong xương "68 triệu" năm tuổi đă bị chôn vùi trong đất. (3)

 

Nếu các quan sát về protein được phân lập từ xương khủng long, chẳng hạn như albumin, collagen và osteocalcin, cũng như DNA là chính xác và chúng ta không có lư do ǵ để nghi ngờ sự cẩn thận của các nhà nghiên cứu, th́ dựa trên những nghiên cứu này, xương phải được xác định lại niên đại. không quá 40.000-50.000 năm tuổi, v́ không thể vượt quá thời gian bảo quản tối đa có thể có của các chất được đề cập trong tự nhiên. (4)

 

tế bào máu . Một điều đáng chú ư là việc phát hiện tế bào máu trong hài cốt của khủng long. Các tế bào máu có nhân đă được t́m thấy và người ta cũng phát hiện ra rằng huyết sắc tố vẫn c̣n trong chúng. Một trong những khám phá quan trọng nhất về tế bào máu đă được thực hiện vào những năm 1990 bởi Mary Schweitzer. Những khám phá tương tự khác đă được thực hiện kể từ đó. Một câu hỏi hay là làm thế nào các tế bào máu có thể được bảo quản trong hàng chục triệu năm hay chúng có nguồn gốc địa chất khá gần đây? Nhiều khám phá thuộc loại này đặt ra câu hỏi về biểu đồ thời gian địa chất và hàng triệu năm của nó. Dựa trên t́nh trạng tốt của hóa thạch, không có lư do chính đáng nào để tin vào hàng triệu năm.

 

Khi Mary Schweitzer lên 5 tuổi, cô bé tuyên bố rằng ḿnh sẽ trở thành nhà nghiên cứu khủng long. Ước mơ của cô đă thành hiện thực, và ở tuổi 38, cô đă có thể nghiên cứu một bộ xương được bảo quản gần như hoàn hảo của Khủng long bạo chúa Rex, được t́m thấy ở Montana vào năm 1998 (Tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ, ngày 17 tháng 11 năm 1993, Tập 270, Số 19 , trang 2376–2377). Tuổi của bộ xương được ước tính là "80 triệu năm." Có tới 90% xương được t́m thấy và chúng vẫn c̣n nguyên vẹn. Schweitzer chuyên nghiên cứu về mô và tự gọi ḿnh là nhà cổ sinh vật học phân tử. Cô ấy đă chọn xương đùi và xương ống chân được t́m thấy và quyết định kiểm tra tủy xương. Schweitzer quan sát thấy tủy xương không bị hóa thạch và nó được bảo quản tốt đến khó tin. Xương hoàn toàn hữu cơ và được bảo quản cực kỳ tốt. Schweitzer đă nghiên cứu nó bằng kính hiển vi và nhận thấy những cấu trúc kỳ lạ. Chúng nhỏ, h́nh tṛn và có nhân, giống như tế bào hồng cầu trong mạch máu. Nhưng các tế bào máu lẽ ra đă biến mất khỏi xương khủng long từ lâu rồi.Schweitzer nói : “Da tôi nổi da gà, giống như tôi đang nh́n vào một khúc xương thời hiện đại. “Tất nhiên là tôi không thể tin vào những ǵ ḿnh đang thấy và tôi nói với kỹ thuật viên pḥng thí nghiệm: 'Những mẩu xương này đă 65 triệu năm tuổi, làm sao các tế bào máu có thể tồn tại lâu như vậy?'" (Science, tháng 7 năm 1993, Tập 261 , trang 160–163). Điều quan trọng với phát hiện này là không phải tất cả xương đă bị hóa thạch hoàn toàn. Gayle Callis, một chuyên gia nghiên cứu về xương, đă trưng bày các mẫu xương trong một cuộc họp khoa học mà một nhà nghiên cứu bệnh học t́nh cờ nh́n thấy chúng. Nhà nghiên cứu bệnh học nhận xét: "Bạn có biết rằng có các tế bào máu trong xương này không?"  Điều này dẫn đến một phim kinh dị đáng chú ư. Mary Schweitzer đă cho Jack Horner, một nhà nghiên cứu khủng long nổi tiếng, xem mẫu vật này."V́ vậy, bạn nghĩ rằng có các tế bào máu trong đó?" , mà Schweitzer trả lời, "Không, tôi không."   "Vậy th́, hăy thử và chứng minh rằng chúng không phải là tế bào máu," Horner trả lời (EARTH, 1997, June: 55–57, Schweitzer et al., The Real Jurassic Park). Jack Horner cho rằng xương dày đến mức nước và oxy đă không thể ảnh hưởng đến chúng. (5)

 

cacbon phóng xạ . Phương pháp quan trọng nhất được sử dụng để đo tuổi của chất hữu cơ là phương pháp carbon phóng xạ. Theo phương pháp này, chu kỳ bán ră chính thức của carbon phóng xạ (C-14) là 5730 năm, v́ vậy sẽ không c̣n lại sau khoảng 100.000 năm.

    Tuy nhiên, thực tế là carbon phóng xạ đă nhiều lần được t́m thấy trong các trầm tích "hàng trăm triệu năm tuổi", giếng dầu, sinh vật Cambri, mỏ than, thậm chí cả kim cương. Khi chu kỳ bán ră chính thức của carbon phóng xạ chỉ là vài thiên niên kỷ, điều này sẽ không thể xảy ra nếu các mẫu có từ hàng triệu năm trước. Khả năng duy nhất là thời điểm chết của các sinh vật gần với hiện tại hơn nhiều, tức là hàng ngh́n năm chứ không phải hàng triệu năm.

    Vấn đề tương tự là với khủng long. Nói chung, khủng long thậm chí c̣n chưa được xác định niên đại bằng carbon phóng xạ, v́ hóa thạch khủng long được coi là quá cũ để xác định niên đại bằng carbon phóng xạ. Tuy nhiên, một vài phép đo đă được thực hiện và điều ngạc nhiên là carbon phóng xạ vẫn c̣n. Điều này, giống như các quan sát trước đó, cho thấy rằng không thể có hàng triệu năm kể từ khi những sinh vật này tuyệt chủng.

    Trích dẫn sau đây cho biết thêm về vấn đề. Một nhóm các nhà nghiên cứu người Đức báo cáo về phần c̣n lại của xác khủng long bằng carbon phóng xạ được t́m thấy ở một số địa điểm khác nhau:

 

Các hóa thạch được cho là rất cũ thường không được xác định niên đại bằng carbon-14 v́ chúng không c̣n sót lại bất kỳ carbon phóng xạ nào. Chu kỳ bán ră của carbon phóng xạ quá ngắn nên thực tế nó đă bị phân hủy hoàn toàn trong ṿng chưa đầy 100.000 năm.

   Vào tháng 8 năm 2012, một nhóm các nhà nghiên cứu người Đức đă báo cáo tại một cuộc họp của các nhà địa vật lư về kết quả đo lường carbon-14 đă được thực hiện trên nhiều mẫu xương khủng long hóa thạch. Theo kết quả, các mẫu xương đă 22.000-39.000 năm tuổi! Ít nhất tại thời điểm viết bài này, bài thuyết tŕnh đă có trên YouTube. (6)

   Kết quả nhận được như thế nào? Hai trong số các chủ tọa, những người không thể chấp nhận các phép đo, đă xóa phần tóm tắt của bài thuyết tŕnh khỏi trang web của hội nghị mà không đề cập đến nó với các nhà khoa học. Kết quả có tại http://newgeology.us/presentation48.html. Trường hợp cho thấy mô h́nh tự nhiên ảnh hưởng như thế nào. Gần như không thể có được những kết quả trái ngược với nó được công bố trong cộng đồng khoa học do chủ nghĩa tự nhiên thống trị. Có nhiều khả năng là nho khô bay. (7)

 

ADN . Một dấu hiệu cho thấy hài cốt khủng long không thể có từ hàng triệu năm trước là việc t́m thấy DNA trong chúng. DNA đă được phân lập từ ví dụ Về nguyên liệu xương Tyrannosaurus Rex (Helsingin Sanomat 26.9.1994) và trứng khủng long ở Trung Quốc (Helsingin Sanomat 17.3.1995). Điều làm cho việc khám phá DNA trở nên khó khăn đối với thuyết tiến hóa là ngay cả từ những xác ướp người già hoặc voi ma mút đă được nghiên cứu, các mẫu DNA không phải lúc nào cũng có thể lấy được v́ vật liệu này đă bị hư hỏng. Một ví dụ điển h́nh là khi Svante Pääbo nghiên cứu các mẫu mô của 23 xác ướp người trong bảo tàng Berlin ở Uppsala. Ông chỉ có thể tách DNA từ một xác ướp, cho thấy chất này không thể tồn tại lâu (Nature 314: 644-645). Việc DNA vẫn c̣n tồn tại ở loài khủng long cho thấy hóa thạch không thể có từ hàng triệu năm trước.

    Điều thậm chí c̣n khó khăn hơn là sau 10.000 năm sẽ không c̣n DNA nào cả (Nature, 1 tháng 8, 1991, tập 352). Tương tự, trong một nghiên cứu khá gần đây từ năm 2012, người ta đă tính toán rằng chu kỳ bán ră của DNA chỉ là 521 năm. Điều này cho thấy ư tưởng về hóa thạch hàng chục triệu năm tuổi có thể bị bác bỏ. Trong các tin tức liên quan (yle.fi > Uutiset > Tiede, 13.10.2012) có nói:

 

Giới hạn cuối cùng của việc bảo tồn DNA đă được t́m thấy - giấc mơ nhân bản khủng long đă kết thúc

 

Khủng long đă tuyệt chủng cách đây 65 triệu năm. Theo một nghiên cứu gần đây, DNA không tồn tại lâu như vậy, kể cả trong điều kiện lư tưởng…

Các enzym và vi sinh vật bắt đầu phá vỡ DNA của tế bào ngay sau khi động vật chết. Tuy nhiên, lư do chính cho điều này được cho là phản ứng gây ra bởi nước. Do gần như có nước ngầm ở khắp mọi nơi, nên về mặt lư thuyết, DNA sẽ phân ră với tốc độ ổn định. Tuy nhiên, để xác định điều này, trước ngày này, chúng tôi không thể t́m thấy số lượng hóa thạch đủ lớn vẫn c̣n sót lại DNA.

Các nhà khoa học Đan Mạch và Úc hiện đă giải mă được bí ẩn khi họ nhận được 158 chiếc xương ống chân của loài chim Moa khổng lồ trong pḥng thí nghiệm của ḿnh và những chiếc xương này vẫn c̣n nguyên liệu di truyền trong đó. Xương có niên đại 600 – 8000 năm và có nguồn gốc gần như từ cùng một khu vực, do đó chúng đă già đi trong điều kiện ổn định.

 

Ngay cả hổ phách cũng không thể cung cấp thêm thời gian cho DNA

 

Bằng cách so sánh tuổi của các mẫu và tốc độ phân hủy của DNA, các nhà khoa học có thể tính toán chu kỳ bán ră là 521 năm. Điều này có nghĩa là sau 521 năm, một nửa số khớp nucleotide trong DNA đă bị phá vỡ. Sau 521 năm nữa, điều này cũng xảy ra với một nửa số khớp c̣n lại, v.v.

Các nhà nghiên cứu lưu ư rằng ngay cả khi xương nằm ở nhiệt độ lư tưởng, tất cả các khớp sẽ bị găy không muộn hơn sau 68 triệu năm. Thậm chí sau một triệu rưỡi năm, DNA trở nên không thể đọc được: có quá ít thông tin c̣n lại, bởi v́ tất cả các phần thiết yếu đă biến mất.

 

Nếu DNA vẫn tồn tại trong cơ thể khủng long và chu kỳ bán ră của chất này chỉ được tính bằng hàng trăm năm, th́ nên rút ra kết luận từ điều này. Các phép đo DNA không đáng tin cậy hoặc những ư tưởng về loài khủng long sống cách đây hàng chục triệu năm là không đúng. Chắc chắn lựa chọn thứ hai là đúng, bởi v́ các phép đo khác cũng đề cập đến các khoảng thời gian ngắn, không phải hàng triệu năm. Đây là một khoa học dựa trên các phép đo, và nếu nó bị bác bỏ hoàn toàn, chúng ta đang lạc lối. 

 

SỰ TIÊU DIỆT CỦA KHỦNG LONG . Khi nói đến sự diệt vong của loài khủng long, người ta thường cho rằng nó đă xảy ra cách đây hàng triệu năm, vào cuối kỷ Phấn trắng. Người ta tin rằng ammonite, belemnites và các loài động thực vật khác cũng tham gia vào quá tŕnh hủy diệt hàng loạt tương tự. Sự hủy diệt được cho là đă quét sạch một phần lớn các loài động vật của kỷ Phấn trắng. Nguyên nhân chính của sự hủy diệt thường được coi là một thiên thạch, thứ sẽ tạo ra một đám mây bụi khổng lồ. Đám mây bụi sẽ che phủ ánh sáng mặt trời trong một thời gian dài, khi đó thực vật sẽ chết và động vật ăn thực vật cũng sẽ chết đói.

    Tuy nhiên, thuyết thiên thạch và thuyết biến đổi khí hậu chậm có một vấn đề: chúng không giải thích được việc t́m thấy hóa thạch bên trong đá cứng và núi. Hóa thạch khủng long được t́m thấy từ những nơi khác nhau trên thế giới bên trong những tảng đá cứng, điều này rất đáng chú ư. Điều đáng chú ư, bởi v́ không có con vật lớn nào - có thể dài 20 mét - có thể chui vào bên trong lớp đá cứng. Thời gian cũng không giúp được ǵ, bởi v́ nếu bạn đợi hàng triệu năm để một con vật được chôn trong ḷng đất và hóa thạch, nó sẽ bị thối rữa trước lúc đó hoặc các loài động vật khác sẽ ăn thịt nó. Trên thực tế, bất cứ khi nào chúng ta bắt gặp khủng long và các hóa thạch khác, chúng phải nhanh chóng bị chôn vùi dưới bùn. Hóa thạch không thể được sinh ra theo bất kỳ cách nào khác:

 

Rơ ràng là nếu quá tŕnh h́nh thành trầm tích diễn ra với tốc độ chậm như vậy th́ không có hóa thạch nào có thể bảo tồn, v́ chúng sẽ không bị chôn vùi trong trầm tích trước khi phân hủy bởi axit của nước, hoặc trước khi chúng bị phá hủy và vỡ thành mảnh khi chúng cọ xát và chạm vào đáy biển nông. Chúng chỉ có thể bị bao phủ bởi trầm tích trong một tai nạn, nơi chúng đột ngột bị chôn vùi. ( Geochronology or the Age of the Earth trên cơ sở Trầm tích và Sự sống , Bản tin của Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia số 80, Washington DC, 1931, tr. 14)

 

Kết luận là những con khủng long được t́m thấy trên khắp thế giới này phải nhanh chóng bị chôn vùi bởi lở đất. Bùn mềm bao quanh chúng lúc đầu và sau đó cứng lại giống như xi măng. Chỉ bằng cách này, nguồn gốc của khủng long, voi ma mút và các hóa thạch động vật khác mới có thể được giải thích. Trong trận Nước Lụt, điều đó chắc chắn có thể xảy ra.

    Chúng tôi xem xét mô tả, đưa ra ư tưởng đúng về điều này. Nó cho thấy những con khủng long được t́m thấy bên trong những tảng đá cứng, cho thấy chúng phải được bao phủ bởi bùn mềm. Bùn sau đó đă cứng lại xung quanh chúng. Chỉ trong trận Đại hồng thủy, chứ không phải trong chu kỳ b́nh thường của tự nhiên, chúng ta mới có thể mong đợi điều tương tự xảy ra (bài báo cũng đề cập đến việc các ḍng xoáy nước có thể chất đống xương khủng long như thế nào). Các chữ in đậm đă được thêm vào văn bản sau đó để làm cho nó rơ ràng hơn:

 

Anh ấy đă đến các sa mạc ở Nam Dakota, nơi có những bức tường và tảng đá màu đỏ, vàng và cam rực rỡ. Trong ṿng vài ngày, anh ấy đă t́m thấy một số xương trong bức tường đá , mà anh ấy ước tính là loại mà anh ấy đă định t́m. Khi đào đá xung quanh các bộ xương , ông phát hiện ra rằng các bộ xương theo thứ tự cấu trúc của con vật. Chúng không chất thành đống như xương khủng long thường thấy. Nhiều đống như vậy như thể được tạo ra bởi một cơn lốc xoáy mạnh mẽ của nước.

   Bây giờ những mảnh xương này nằm trong sa thạch xanh, rất cứng . Đá sa thạch phải được loại bỏ bằng máy san và loại bỏ bằng cách nổ ḿn. Brown và những người bạn đồng hành đă đào một cái hố sâu gần bảy mét rưỡi để lấy xương ra. Họ đă mất hai mùa hè để loại bỏ một bộ xương lớn. Họ hoàn toàn không lấy xương ra khỏi đá. Họ vận chuyển những tảng đá bằng đường sắt đến bảo tàng, nơi các nhà khoa học có thể đập vật liệu đá ra và dựng lên bộ xương. Con thằn lằn bạo chúa này hiện đang đứng trong pḥng triển lăm của bảo tàng. (trang 72, Khủng long / Ruth Wheeler và Harold G. Coffin)  

 

THÊM BẰNG CHỨNG VỀ LŨ . V́ vậy, thực tế là phần c̣n lại của khủng long được t́m thấy bên trong những tảng đá cứng, rất khó để loại bỏ chúng. Khả năng duy nhất khiến họ rơi vào trạng thái này là bùn mềm đă nhanh chóng h́nh thành xung quanh họ và sau đó cứng lại thành đá. Trong một sự kiện như Trận lụt, điều này có thể đă xảy ra. Tuy nhiên, có đề cập đến những loài động vật lớn như thế này trong lịch sử loài người ngay cả sau trận lụt, v́ vậy chúng không chết hết sau đó.

    C̣n những bằng chứng khác về trận Nước Lụt th́ sao? Ở đây chúng tôi chỉ nhấn mạnh một vài trong số họ. Những ǵ trong biểu đồ thời gian địa chất được giải thích bằng hàng triệu năm, hoặc có lẽ nhiều thảm họa, đều có thể được gây ra bởi một và cùng một thảm họa: Lũ lụt. Nó có thể giải thích sự hủy diệt của khủng long cũng như nhiều đặc điểm khác được quan sát thấy trong đất.

    Ví dụ, một bằng chứng thuyết phục về trận Lụt là trầm tích biển phổ biến khắp thế giới, như các trích dẫn sau đây cho thấy. Nhận xét đầu tiên là từ một cuốn sách của James Hutton, cha đẻ của ngành địa chất, từ hơn 200 năm trước:

 

Chúng ta phải kết luận rằng tất cả các lớp đất (...) được h́nh thành bởi cát và sỏi chất đống dưới đáy biển, vỏ giáp xác và san hô, đất và đất sét. (J. Hutton, The Theory of the Earth l, 26. 1785)

 

JS Shelton: Trên các lục địa, đá trầm tích biển phổ biến và rộng răi hơn nhiều so với tất cả các loại đá trầm tích khác cộng lại. Đây là một trong những sự thật đơn giản cần được giải thích, là trung tâm của mọi thứ liên quan đến những nỗ lực không ngừng của con người để hiểu được địa lư thay đổi của quá khứ địa chất. (số 8)

 

Một dấu hiệu khác của Lũ lụt là các mỏ than trên khắp thế giới, được biết là đă bị phân tầng bởi nước. Ngoài ra, sự hiện diện của cá và hóa thạch biển cho thấy rằng trầm tích không thể là kết quả của quá tŕnh lắng đọng than bùn chậm ở một số đầm lầy cụ thể. Thay vào đó, một lời giải thích tốt hơn là nước đă vận chuyển thực vật đến những nơi than được h́nh thành. Nước đă làm bật gốc cây cối, chất thành đống lớn và mang theo các loài động vật biển lẫn trong các loài thực vật trên cạn. Điều này chỉ có thể xảy ra trong một thảm họa lớn, chẳng hạn như Trận lụt được đề cập trong Kinh thánh.

 

Khi các khu rừng bị chôn vùi trong bùn v́ một lư do nào đó, các mỏ than đă được tạo ra. Văn hóa máy hiện tại của chúng tôi một phần dựa trên các tầng lớp này. (Mattila Rauno, Teuvo Nyberg & Olavi Vestelin, Koulun biologia 9, trang 91)

 

Bên dưới và bên trên các vỉa than khoáng, như đă nói, có các lớp đá sét thông thường, và từ cấu trúc của chúng, chúng ta có thể thấy rằng chúng đă được phân tầng từ nước. (9)

 

Bằng chứng rơ ràng cho thấy rằng than khoáng sản được tạo ra nhanh chóng khi những khu rừng lớn bị phá hủy, phân lớp và sau đó nhanh chóng bị chôn vùi. Có những tầng than non khổng lồ ở Yallourn, Victoria (Úc) chứa nhiều thân cây thông – loại cây hiện không mọc trên vùng đất đầm lầy.

   Các tầng dày, được sắp xếp có chứa tới 50% phấn hoa nguyên chất và trải rộng trên một diện tích rộng lớn chứng minh rơ ràng rằng các tầng than non được h́nh thành bởi nước. (10)

 

Các trường học dạy rằng carbon được tạo ra dần dần từ than bùn, mặc dù không nơi nào có thể quan sát thấy điều này đang xảy ra. Xem xét phạm vi của các mỏ than, các loại thực vật khác nhau và các thân cây nhiều lớp thẳng đứng, có vẻ như các mỏ than được h́nh thành bởi các mảng thực vật khổng lồ trôi dạt trong một trận lũ lụt rất lớn. Các hành lang được chạm khắc bởi các sinh vật biển cũng được t́m thấy trong các hóa thạch thực vật bị cacbon hóa này. Hóa thạch của động vật biển cũng đă được t́m thấy trong các mỏ than ("A note on the Occurrence of Marine Animal Remains in a Lancashire Coal Ball", Geological Magazine, 118:307,1981) ... , sống ở biển, cũng có thể được t́m thấy trong các mỏ than.(Weir, J., ”Các nghiên cứu gần đây về vỏ của các phép đo carbon”, Science Progress, 38:445, 1950). (11)

 

GS Price đưa ra những trường hợp có từ 50 đến 100 lớp than khoáng xếp chồng lên nhau và giữa chúng có những lớp hóa thạch từ biển sâu. Anh ấy cho rằng bằng chứng này mạnh mẽ và thuyết phục đến mức anh ấy chưa bao giờ cố gắng giải thích những sự thật này trên cơ sở lư thuyết đồng nhất của Lyell. (12)

 

Dấu hiệu thứ ba của trận Lụt là sự hiện diện của các hóa thạch biển ở những ngọn núi cao như dăy Himalaya, dăy An-pơ và dăy Andes. Dưới đây là một số ví dụ từ sách riêng của các nhà khoa học và nhà địa chất:

 

Trong khi du hành trên chiếc Beagle, chính Darwin đă t́m thấy những vỏ ṣ hóa thạch từ trên cao trên Dăy núi Andean. Nó cho thấy rằng, những ǵ bây giờ là một ngọn núi đă từng ở dưới nước. (Jerry A. Coyne: Miksi evoluutio on totta [Tại sao tiến hóa là đúng], trang 127)

 

Có lư do để quan sát kỹ bản chất ban đầu của đá trong các dăy núi. Nó được nh́n thấy rơ nhất ở dăy Alps, trong dăy núi Alps vôi ở phía bắc, được gọi là vùng Helvetian. Đá vôi là vật liệu đá chính. Khi chúng ta nh́n vào tảng đá ở đây trên sườn dốc hoặc trên đỉnh núi - nếu chúng ta có sức lực để leo lên đó - cuối cùng chúng ta sẽ t́m thấy hài cốt động vật hóa thạch, hóa thạch động vật, trong đó. Chúng thường bị hư hỏng nặng nhưng vẫn có thể t́m thấy những mảnh dễ nhận biết. Tất cả những hóa thạch đó đều là vỏ vôi hoặc bộ xương của sinh vật biển. Trong số đó có ammonite dạng xoắn ốc và đặc biệt là rất nhiều trai hai mảnh vỏ. (…) Đến đây, người đọc có thể thắc mắc điều ǵ có nghĩa là các dăy núi chứa rất nhiều trầm tích, cũng có thể được t́m thấy phân tầng dưới đáy biển. (tr. 236,237 "Muuttuva maa", Pentti Eskola)

 

Harutaka Sakai từ Đại học Nhật Bản ở Kyushu đă có nhiều năm nghiên cứu những hóa thạch biển này ở dăy núi Himalaya. Ông và nhóm của ḿnh đă liệt kê toàn bộ thủy cung từ thời kỳ Đại Trung sinh. Hoa loa kèn biển mỏng manh, họ hàng với loài nhím biển và sao biển hiện nay, được t́m thấy trong các vách đá cao hơn ba km so với mực nước biển. Ammonites, belemnites, san hô và sinh vật phù du được t́m thấy dưới dạng hóa thạch trong đá núi (…)

   Ở độ cao hai km, các nhà địa chất đă t́m thấy dấu vết do chính biển để lại. Bề mặt đá giống như sóng của nó tương ứng với các dạng tồn tại trong cát từ sóng nước thấp. Ngay cả trên đỉnh Everest, người ta cũng t́m thấy những dải đá vôi màu vàng nổi lên dưới nước từ xác của vô số động vật biển. ("Maapallo ihmeiden planeetta", trang 55)

 

Dấu hiệu thứ tư của Lũ lụt là những câu chuyện về lũ lụt, theo một số ước tính, có gần 500 câu chuyện trong số đó. Tính chất phổ quát của những câu chuyện này có thể được coi là bằng chứng tốt nhất cho sự kiện này:

 

Khoảng 500 nền văn hóa – bao gồm các dân tộc bản địa của Hy Lạp, Trung Quốc, Peru và Bắc Mỹ – được biết đến trên thế giới nơi truyền thuyết và thần thoại mô tả một câu chuyện hấp dẫn về một trận lụt lớn đă làm thay đổi lịch sử của bộ tộc. Trong nhiều câu chuyện, chỉ có một vài người sống sót sau trận lụt, giống như trường hợp của Nô-ê. Nhiều người cho rằng lũ lụt là do các vị thần, v́ lư do này hay lư do khác, đă chán loài người. Có lẽ con người đă thối nát, giống như thời Nô-ê và trong một truyền thuyết của bộ tộc Hopi bản địa ở Bắc Mỹ, hoặc có lẽ có quá nhiều người và quá ồn ào, như trong sử thi Gilgamesh. (13)

 

Nếu trận Đại Hồng Thủy trên toàn thế giới không có thật, một số quốc gia sẽ giải thích rằng những vụ phun trào núi lửa đáng sợ, những cơn băo tuyết lớn, hạn hán (...) đă tiêu diệt tổ tiên xấu xa của họ. Do đó, tính phổ biến của câu chuyện về trận Nước Lụt là một trong những bằng chứng tốt nhất về tính trung thực của nó. Chúng ta có thể loại bỏ bất kỳ câu chuyện nào trong số này như những truyền thuyết riêng lẻ và nghĩ rằng đó chỉ là trí tưởng tượng, nhưng nh́n chung, từ góc độ toàn cầu, chúng gần như không thể chối căi. (Trái đất)

 

Khủng long và động vật có vú . Khi đọc sách sinh học và tài liệu về tiến hóa, chúng ta liên tục bắt gặp ư tưởng về cách tất cả sự sống tiến hóa từ một tế bào nguyên thủy đơn giản đến các dạng hiện tại. Quá tŕnh tiến hóa bao gồm cá phải trở thành ếch, ếch thành loài ḅ sát và khủng long thành động vật có vú. Tuy nhiên, một quan sát quan trọng là xương khủng long đă được t́m thấy giữa các xương giống như xương ngựa, ḅ và cừu (Anderson, A., Du lịch trở thành nạn nhân của khủng long bạo chúa, Nature, 1989, 338, 289 / Dinosaurus may have dead silent after all, 1984 , New Scientist, 104, 9.), vậy khủng long và động vật có vú phải sống cùng thời.

    Các trích dẫn sau đây đề cập đến như vậy. Nó kể về cách Carl Werner quyết định kiểm tra lư thuyết của Darwin trong thực tế. Ông đă thực hiện 14 năm nghiên cứu và chụp hàng ngh́n bức ảnh. Các nghiên cứu cho thấy động vật có vú và chim sống rất phong phú và cùng thời với khủng long:

 

Không có bất kỳ kiến ​​thức cụ thể nào trước đó về hóa thạch sống, bác sĩ y tế người Mỹ Carl Werner đă quyết định đưa lư thuyết của Darwin vào một thử nghiệm thực tế… Ông đă tiến hành nghiên cứu sâu rộng trong 14 năm về hóa thạch của thời đại khủng longvà những loài có thể cùng tồn tại với chúng… Werner tự làm quen với tài liệu cổ sinh vật học chuyên nghiệp và đă đến thăm 60 bảo tàng lịch sử tự nhiên trên khắp thế giới, nơi ông đă chụp 60 000 bức ảnh. Ông chỉ tập trung vào các hóa thạch được đào lên từ cùng địa tầng, nơi có thể t́m thấy hóa thạch khủng long (kỷ Triassic -, Jura -, và Creta cách đây 250-65 triệu năm). Sau đó, ông so sánh hàng ngh́n hóa thạch cùng tuổi mà ông t́m thấy trong viện bảo tàng và thấy trong tài liệu với các loài hiện tại, đồng thời phỏng vấn nhiều chuyên gia trong lĩnh vực cổ sinh vật học và các chuyên gia khác. Kết quả của ông là các bảo tàng và tài liệu dựa trên cổ sinh vật học đă trưng bày hóa thạch của mọi nhóm loài hiện đang tồn tại …

   Chúng ta được biết rằng động vật có vú bắt đầu phát triển chậm trong “kỷ nguyên sơ khai” của khủng long, rằng động vật có vú đầu tiên là “những sinh vật nhỏ giống chuột chù sống ẩn nấp và chỉ di chuyển vào ban đêm v́ sợ khủng long”. Tuy nhiên, trong các tài liệu chuyên nghiệp, Werner đă phát hiện ra các báo cáo về sóc, opossum, hải ly, linh trưởng và thú mỏ vịt đă được đào lên từ địa tầng khủng long. Ông cũng đề cập đến một công tŕnh xuất bản năm 2004, theo đó 432 sinh vật có vú đă được t́m thấy trong các tầng Triassic -, Jura - và Creta, và gần một trăm trong số chúng là những bộ xương hoàn chỉnh…

   Trong video phỏng vấn của Werner, người quản lư bảo tàng thời tiền sử của Utah, Tiến sĩ Donald Burge, giải thích: “Chúng tôi t́m thấy hóa thạch động vật có vú trong hầu hết các cuộc khai quật khủng long của chúng tôi. Chúng tôi có mười tấn đất sét bentonite chứa hóa thạch động vật có vú và chúng tôi đang trong quá tŕnh cung cấp chúng cho các nhà nghiên cứu khác. Không phải v́ chúng tôi không thấy chúng quan trọng, mà v́ cuộc đời ngắn ngủi, và tôi không chuyên về động vật có vú: tôi chuyên về ḅ sát và khủng long”. Nhà cổ sinh vật học Zhe-Xi Luo (Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Carnegie, Pittsburgh) đă phát biểu trong cuộc phỏng vấn qua video của Werner vào tháng 5 năm 2004: “Thuật ngữ 'kỷ nguyên khủng long' là cách gọi sai. Động vật có vú tạo thành một nhóm quan trọng cùng tồn tại với khủng long và cũng sống sót”. (Những nhận xét này trích từ cuốn sách: Werner C. Living Fossils, trang 172 –173). (14)

 

Dựa trên các phát hiện hóa thạch, thuật ngữ kỷ nguyên khủng long do đó gây hiểu lầm. Các loài động vật có vú hiện đại thông thường đă sống cùng thời với khủng long, tức là có ít nhất 432 loài động vật có vú.

    C̣n những loài chim được cho là tiến hóa từ khủng long th́ sao? Chúng cũng đă được t́m thấy trong cùng địa tầng với khủng long. Đây chính xác là những loài giống như ngày nay: vẹt, chim cánh cụt, cú đại bàng, chim sáo, hải âu, hồng hạc, loon, vịt, chim cốc, avocet... Tiến sĩ Werner đă tuyên bố rằng "" Các bảo tàng không trưng bày những hóa thạch chim hiện đại này , cũng không vẽ chúng trong h́nh ảnh mô tả môi trường khủng long. Nó là sai. Về cơ bản, bất cứ khi nào T. Rex hoặc Triceratops được mô tả trong triển lăm bảo tàng, th́ vịt, loe, hồng hạc hoặc một số loài chim hiện đại khác đă được t́m thấy trong cùng tầng với khủng long cũng nên được mô tả. Nhưng điều đó không xảy ra. Tôi chưa bao giờ nh́n thấy một con vịt với một con khủng long trong bảo tàng lịch sử tự nhiên, phải không? Một con cú? Một con vẹt?”

 

Khủng long và con người . Trong thuyết tiến hóa, việc con người sống trên trái đất sớm nhất là loài khủng long là không thể. Nó không được chấp nhận, mặc dù người ta biết rằng các loài động vật có vú khác xuất hiện cùng lúc với khủng long, và mặc dù những khám phá khác thậm chí c̣n gợi ư rằng con người lẽ ra phải xuất hiện trước khủng long (các vật phẩm và hóa thạch của con người trong các mỏ than, v.v.).

    Tuy nhiên, có một số bằng chứng rơ ràng rằng khủng long và con người sống cùng thời điểm. Vd: miêu tả rồng là như vậy. Trước đây, người ta nói về rồng chứ không nói về khủng long, cái tên do Richard Owen phát minh ra chỉ vào thế kỷ 19.

 

Truyện s. Một bằng chứng cho thấy khủng long sống trong quá khứ gần đây là nhiều câu chuyện và mô tả về những con rồng lớn và thằn lằn bay. Những mô tả này càng cũ, chúng càng đúng. Những mô tả này, có thể dựa trên thông tin bộ nhớ cũ, có thể được t́m thấy ở nhiều dân tộc khác nhau, do đó chúng được đề cập, chẳng hạn như trong văn học Anh, Ailen, Đan Mạch, Na Uy, Đức, Hy Lạp, La Mă, Ai Cập và Babylon. Các trích dẫn sau đây nói về sự phổ biến của các mô tả rồng.

 

Những con rồng trong truyền thuyết, thật kỳ lạ, giống như những con vật thực sự sống trong quá khứ. Chúng giống những loài ḅ sát lớn (khủng long) đă cai trị vùng đất này từ rất lâu trước khi con người được cho là xuất hiện. Rồng thường được coi là xấu và phá hoại. Mỗi quốc gia gọi họ trong thần thoại của họ. ( The World Book Encyclopedia, Tập 5, 1973, s. 265)

 

Kể từ buổi đầu của lịch sử được ghi lại, rồng đă xuất hiện ở khắp mọi nơi: trong những ghi chép sớm nhất của người Assyria và Babylon về sự phát triển của nền văn minh, trong lịch sử Cựu Ước của người Do Thái, trong các văn bản cổ của Trung Quốc và Nhật Bản, trong thần thoại của Hy Lạp, La Mă và những người theo đạo Cơ đốc thời sơ khai, trong ẩn dụ của Châu Mỹ cổ đại, trong thần thoại của Châu Phi và Ấn Độ. Thật khó để t́m thấy một xă hội không bao gồm rồng trong lịch sử huyền thoại của nó… Aristotle, Pliny và các nhà văn khác của thời kỳ cổ điển cho rằng những câu chuyện về rồng dựa trên sự thật chứ không phải trí tưởng tượng. (15)

 

Nhà địa chất học người Phần Lan Pentti Eskola đă nói từ nhiều thập kỷ trước trong cuốn sách Muuttuva maa của ông về việc h́nh ảnh rồng giống với khủng long như thế nào:

 

Các dạng khác nhau của động vật giống thằn lằn có vẻ rất buồn cười đối với chúng ta bởi v́ nhiều loài trong số chúng giống – theo một cách khác xa và thường giống như tranh biếm họa – động vật có vú hiện đại sống trong những điều kiện tương tự. Tuy nhiên, hầu hết các loài khủng long rất khác so với các dạng sống hiện đại đến mức có thể t́m thấy sự tương tự gần nhất trong các mô tả về rồng trong truyền thuyết. Thật kỳ lạ, các tác giả của truyền thuyết đương nhiên không nghiên cứu về hóa đá hoặc thậm chí không biết về chúng. (16)

 

Một ví dụ điển h́nh về việc khủng long có thể thực sự là rồng như thế nào là lịch âm và tử vi của Trung Quốc, được biết là đă có hàng thế kỷ. V́ vậy, khi cung hoàng đạo Trung Quốc dựa trên 12 cung hoàng đạo lặp lại theo chu kỳ 12 năm, sẽ có 12 con giáp tham gia. 11 trong số đó đă quen thuộc ngay cả trong thời hiện đại: chuột, ḅ, hổ, thỏ, rắn, ngựa, cừu, khỉ, gà trống, chó và lợn.Thay vào đó, con vật thứ 12 là một con rồng, không tồn tại ngày nay. Một câu hỏi hay là nếu 11 con giáp đă là những con vật có thật th́ tại sao rồng lại là một ngoại lệ và là một sinh vật thần thoại? Chẳng phải sẽ hợp lư hơn khi cho rằng nó từng sống cùng thời với con người, nhưng đă bị tuyệt chủng như vô số loài động vật khác? Thật tốt khi nhớ lại rằng thuật ngữ khủng long chỉ được phát minh ra vào thế kỷ 19 bởi Richard Owen. Trước đó, tên rồng đă được sử dụng trong nhiều thế kỷ:

 

Ngoài ra, có thể kể đến những nhận xét sau:

 

• Marco Polo đă kể về những con vật khổng lồ mà ông nh́n thấy ở Ấn Độ, được coi là những vị thần. Những con vật này là ǵ? Nếu chúng là voi, chắc chắn anh ta sẽ biết điều đó.

    Điều thú vị là trong một ngôi đền 800 năm tuổi ở rừng rậm Campuchia, người ta đă t́m thấy một h́nh chạm khắc trông giống như một con khủng long ăn thịt. Nó là một loại khủng long. (Từ Đền Ta Prohm. Maier, C., The Fantastic Creatures of Angkor, www.unexplainedearth.com/angkor.php, 9 tháng 2 năm 2006.)

 

• Ở Trung Quốc, những mô tả và câu chuyện về rồng rất phổ biến; hàng ngàn trong số chúng được biết đến. Họ kể về cách rồng đẻ trứng, làm thế nào một số trong số chúng có cánh và vảy bao phủ chúng như thế nào. Một câu chuyện Trung Quốc kể về một người đàn ông tên Yu gặp phải những con rồng khi anh ta đang rút cạn một đầm lầy. Điều này xảy ra sau trận lụt lớn toàn cầu.

    Ở Trung Quốc, xương khủng long đă được sử dụng trong nhiều thế kỷ làm thuốc chữa bỏng và thuốc đắp truyền thống. Tên tiếng Trung của loài khủng long (kong long) đơn giản có nghĩa là "xương rồng" (Don Lessem, Dinosaurs redetected p. 128-129. Touchstone 1992.). Người Trung Quốc cũng được cho là đă sử dụng rồng làm thú cưng và trong các cuộc diễu hành của hoàng gia (Molen G, Fortidens vidunder, Genesis 4, 1990, trang 23-26.)

 

• Người Ai Cập đă miêu tả rồng Apophis là kẻ thù của vua Re. Tương tự như vậy, những mô tả về rồng lưu hành trong văn học Babylon. Gilgamesh nổi tiếng được cho là đă giết một con rồng, một sinh vật giống loài ḅ sát khổng lồ, trong một khu rừng tuyết tùng. (Encyclopedia Britannica, 1962, Tập 10, trang 359)

 

• Thần Apollo của Hy Lạp được cho là đă giết con rồng Python ở đài phun nước Delfin. Đáng chú ư nhất trong số những kẻ giết rồng của Hy Lạp và La Mă cổ đại là một người tên là Perseus.

 

• Tường thuật được ghi dưới dạng thơ ca từ năm 500-600 sau Công nguyên. kể câu chuyện về một người đàn ông dũng cảm tên là Beowulf, người được giao nhiệm vụ dọn sạch eo biển Đan Mạch khỏi cả quái vật bay và thủy quái. Hành động anh hùng của anh ấy là giết quái vật Grendel. Con vật này được cho là có chi sau lớn và chi trước nhỏ, có thể chịu được các đ̣n kiếm và có phần to lớn hơn con người. Nó di chuyển theo chiều dọc rất nhanh.

 

• Tác giả La Mă Lucanus cũng đă nói về rồng. Anh ấy hướng lời nói của ḿnh tới một con rồng Ethiopia: “Hỡi con rồng lấp lánh ánh vàng, ngươi làm cho không khí bay cao và giết những con ḅ tót vĩ đại.

 

• Các mô tả về rắn bay ở Ả Rập của Herodotos người Hy Lạp (khoảng 484–425 TCN) vẫn được bảo tồn. Anh ấy mô tả khá khéo léo một số loài thằn lằn bay. (Rein, E., Sách Herodotos III-VI , trang 58 và Sách VII-IX , trang 239, WSOY, 1910)

 

• Pliny đă đề cập đến (Lịch sử tự nhiên) vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên về việc con rồng "chiến tranh liên miên với voi, và bản thân nó có kích thước khổng lồ đến mức quấn con voi trong các nếp gấp của nó và bọc nó bên trong cái kén của nó."

 

• Một cuốn bách khoa toàn thư cũ Lịch sử Animalium đề cập rằng vẫn c̣n "rồng" vào những năm 1500, nhưng chúng đă giảm kích thước đáng kể và rất hiếm.

 

• Một biên niên sử người Anh từ năm 1405 có đề cập đến rồng: "Gần thị trấn Bures, vùng lân cận Sudbury, gần đây người ta thấy một con rồng đă gây thiệt hại nặng nề cho vùng nông thôn. Nó có kích thước khổng lồ, có mào trên đỉnh đầu, răng như lưỡi cưa, đuôi dài ngoằng ngoằng, sau khi giết người chăn cừu, nó nuốt chửng rất nhiều cừu trong miệng. (Cooper, B., After the Flood-Lịch sử sớm sau trận lụt của châu Âu bắt nguồn từ thời Nô-ê, New Wine Press, West Sussex, UK, trang 130-161)

 

• Vào thế kỷ 16, nhà khoa học người Ư Ulysses Aldrovanus đă mô tả chính xác về một con rồng nhỏ trong một ấn phẩm của ông. Edward Topsell đă viết vào cuối năm 1608: “Có nhiều loại rồng. Các loại khác nhau được phân tách một phần dựa trên quốc gia của chúng, một phần dựa trên kích thước của chúng, một phần dựa trên các dấu hiệu phân biệt của chúng."

 

• Phù hiệu rồng là phổ biến trong nhiều lực lượng quân sự. Nó được sử dụng bởi các hoàng đế Đông La Mă và các vị vua Anh (Uther Pendragon, cha của Vua Arthur, Richard I trong cuộc chiến năm 1191 và Henry III trong cuộc chiến chống lại người xứ Wales năm 1245) cũng như ở Trung Quốc, con rồng là một biểu tượng quốc gia trong huy hiệu của gia đ́nh hoàng gia.

 

• Khủng long và rồng là một phần văn hóa dân gian của nhiều quốc gia. Ngoài Trung Quốc, điều này đă phổ biến ở các quốc gia Nam Mỹ.

                                                            

• Johannes Damascene, Giáo phụ cuối cùng của Giáo hội Hy Lạp, sinh năm 676 sau Công nguyên, mô tả về rồng (The Works of St. John Damascene, Martis Publishing House, Moscow, 1997) theo cách sau:

 

Roman Dio Cassius (155–236 sau Công nguyên), người đă viết lịch sử của Đế chế và Cộng ḥa La Mă, mô tả các trận chiến của lănh sự La Mă Regulus ở Carthage. Một con rồng đă bị giết trong trận chiến. Nó đă được lột da và da được gửi đến Thượng viện. Theo lệnh của Thượng viện, tấm da được đo và nó dài 120 feet (khoảng 37 mét). Tấm da được cất giữ trong một ngôi đền trên những ngọn đồi của Rome cho đến năm 133 trước Công nguyên, khi nó biến mất khi người Celt chiếm đóng Rome. (Plinius, Lịch sử tự nhiên . Quyển 8, Chương 14. Bản thân Plinius nói rằng đă nh́n thấy chiếc cúp được đề cập ở Rome). (17)

 

• Bản vẽ. Các bản vẽ, tranh vẽ và tượng rồng cũng được bảo tồn, gần như giống hệt nhau về chi tiết giải phẫu trên khắp thế giới. Chúng được t́m thấy trong hầu hết các nền văn hóa và tôn giáo, giống như những câu chuyện về chúng rất phổ biến. H́nh ảnh của những con rồng đă được ghi lại trong ví dụ như khiên quân sự (Sutton Hoo) và đồ trang trí trên tường nhà thờ (ví dụ như SS Mary và Hardulph, Anh). Ngoài những con ḅ đực và sư tử, những con rồng được mô tả trên Cổng Ishtar của thành phố cổ Babylon. Các con dấu h́nh trụ thời kỳ đầu của Lưỡng Hà cho thấy những con rồng đang quấn cổ nhau với những cái đuôi dài gần bằng cổ của chúng (Moortgat, A., The art of Ancient Mesopotamia, Phaidon Press, London 1969, pp. 1,9,10 and Plate A.) . Có thể xem thêm các bức tranh theo chủ đề rồng-khủng long, ví dụ như trên www.helsinki.fi/~pjojala/Dinosauruslegendat.htm.

    Thật thú vị, có những h́nh vẽ của những con vật này ngay cả trên các bức tường của hang động và hẻm núi. Những khám phá này đă được thực hiện ít nhất ở Arizona và khu vực của Rhodesia trước đây (Wysong. RL, Cuộc tranh căi về sự sáng tạo-tiến hóa, trang 378,380). Ví dụ, ở Arizona vào năm 1924, khi kiểm tra một bức tường núi cao, người ta phát hiện ra rằng h́nh ảnh của nhiều loài động vật khác nhau đă được khắc vào đá, chẳng hạn như voi và hươu núi, nhưng cũng có h́nh ảnh rơ ràng của một con khủng long (Thoralf Gulbrandsen: Puuttuva rengas, 1957, trang 91). Người da đỏ Maya cũng đă bảo tồn được một tác phẩm điêu khắc phù điêu với một con chim giống Archaeopteryx, tức là một con chim thằn lằn (18) . Theo quan điểm tiến hóa, lẽ ra nó phải sống cùng thời với khủng long.

    Bằng chứng cũng đă được lưu giữ về loài thằn lằn bay, sải cánh có thể dài 20 mét và được cho là đă chết cách đây hàng chục triệu năm. Mô tả sau đây đề cập đến chúng và cách một động vật bay giống Thằn lằn bay được mô tả trên đồ gốm:

 

Loài thằn lằn bay lớn nhất là thằn lằn bay có sải cánh có thể dài hơn 17 mét. (…) Trên Tạp chí BBC Wildlife (3/1995, Tập 13), Richard Greenwell đă suy đoán về sự tồn tại của loài thằn lằn bay ngày nay. Ông trích lời nhà thám hiểm A. Hyatt Verrill, người đă t́m thấy một số đồ gốm của Peru. Các b́nh đất sét mô tả một con thằn lằn bay giống như pterodactyl.

   Verrill suy đoán rằng các nghệ sĩ đă sử dụng hóa thạch làm h́nh mẫu của họ và viết:

 

Trong nhiều thế kỷ, những mô tả chính xác và thậm chí cả những bản vẽ về hóa thạch dực long bay đă được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, v́ tổ tiên của người Cocle sống ở một quốc gia nơi có di tích của loài dực long được bảo quản tốt.

 

Ngoài ra, người da đỏ Bắc Mỹ đă quen thuộc với loài chim sấm sét, tên của nó cũng được mượn cho một chiếc ô tô. (19)

 

Trong Kinh thánh , Behemoths và Leviathan được đề cập trong sách Gióp dường như đề cập đến khủng long. Người ta nói về con quái vật rằng đuôi của nó giống như một cây tuyết tùng, các gân ở đùi của nó đan chặt vào nhau và xương giống như những thanh sắt. Những mô tả này rất phù hợp với một số loài khủng long, chẳng hạn như sauropod, có thể dài tới hơn 20 mét. Tương tự như vậy, vị trí của Behemoth trong băi sậy bí mật và đầm lầy phù hợp với khủng long, v́ một số trong số chúng sống gần các băi biển.

    Đối với cái đuôi giống như cây tuyết tùng mà Behemoth di chuyển, điều thú vị là ngày nay không có loài động vật lớn nào được biết là có cái đuôi như vậy. Đuôi của khủng long ăn cỏ có thể dài 10-15 mét và nặng 1-2 tấn, và những động vật tương tự không được biết đến trong thời hiện đại. Một số bản dịch Kinh thánh dịch Behemoth là hà mă (và Leviathan là cá sấu), nhưng mô tả về cái đuôi giống cây tuyết tùng không phù hợp với hà mă theo bất kỳ cách nào.

    Một nhận xét thú vị về chủ đề này có thể được t́m thấy từ nhà khoa học hóa thạch quá cố đáng kính Stephen Jay Gould, một người vô thần theo chủ nghĩa Mác. Ông nói rằng khi sách Gióp nói về Behemoth, con vật duy nhất phù hợp với mô tả này là khủng long (Pandans Tumme, trang 221, Ordfrontsförlag, 1987). Là một người theo thuyết tiến hóa, ông tin rằng tác giả của sách Gióp hẳn đă thu thập kiến ​​thức từ những hóa thạch được t́m thấy. Tuy nhiên, đây là một trong những cuốn sách cổ nhất trong Kinh thánh đề cập rơ ràng đến một con vật sống (Gióp 40:15: Bây giờ hăy xem con vật khổng lồ mà tôi đă làm với bạn…).  

 

- (Gióp 40:15-23) Bây giờ hăy xem con người khổng lồ mà tôi đă làm với bạn; anh ta ăn cỏ như một con ḅ.

16 Hăy xem, sức mạnh của anh ấy ở trong thắt lưng của anh ấy, và sức mạnh của anh ấy ở trong rốn của anh ấy.

17 Nó quẫy đuôi như cây bá hương : Gân đùi nó chằng chịt .

18 Xương cốt người cứng như đồng ; xương nó như thanh sắt.

19 Ngài là người đứng đầu các đường lối của Đức Chúa Trời: Đấng đă tạo dựng nên Ngài có thể sai gươm đến gần Ngài.

20 Chắc chắn các núi mang lương thực cho nó, Nơi mọi thú đồng chơi đùa.

21 Anh nằm dưới bóng cây râm mát, trong lùm lau sậy, lùm sậy .

22 Cây cối rợp bóng che phủ Ngài; những cây liễu bên ḍng suối bao quanh anh ta.

23 Ḱa, Ngài uống cạn một ḍng sông , và không vội vă; Ngài tin rằng Ngài có thể múc sông Giô-đanh vào miệng Ngài.

 

Leviathan là một sinh vật thú vị khác được đề cập trong Sách Công việc. Sinh vật này được cho là vua của các loài động vật và người ta mô tả cách ngọn lửa thoát ra từ miệng của nó. (Cái gọi là bọ máy bay ném bom có ​​thể phun khí nóng – 100 độ C – trực tiếp vào kẻ tấn công, cũng được biết đến trong vương quốc động vật). Có thể nhiều câu chuyện về rồng có thể phun lửa từ miệng bắt nguồn từ đây.

   Một số bản dịch Kinh thánh đă dịch Leviathan là một con cá sấu, nhưng ai đă nh́n thấy một con cá sấu khiến bạn phát khiếp khi nh́n thấy nó, và ai có thể coi sắt như rơm, và đồng như gỗ mục, và ai là vua của tất cả các loài động vật hùng vĩ? Rất có thể, nó cũng là một loài động vật đă tuyệt chủng không c̣n tồn tại, nhưng đă được biết đến vào thời Gióp. Sách Gióp nói như sau:

 

- (Gióp 41:1,2,9,13-34) Bạn có thể rút leviathan bằng một cái móc không? hoặc lưỡi của ḿnh với một sợi dây mà bạn thả xuống?

2 Bạn có thể móc một cái móc vào mũi anh ấy không? Hay dùng gai chọc thủng hàm nó?

Nầy, hy vọng về nó là hăo huyền: Há chẳng một người nào bị xô ngă khi vừa thấy nó sao ?

13 Ai t́m được mặt áo ḿnh? hoặc ai có thể đến với anh ta với dây cương đôi của anh ta?

14 Ai mở được các cửa mặt Ngài? răng của anh ấy tṛn khủng khiếp .

15 Vảy của nó là niềm tự hào của nó, Đóng lại với nhau như đóng dấu kín .

16 Người này ở gần người kia đến nỗi không khí không thể chen vào giữa họ.

17 Chúng liên kết với nhau, dính chặt vào nhau đến nỗi không thể tách rời.

18 Nhờ nhu cầu của anh ấy, ánh sáng tỏa ra, và đôi mắt anh ấy giống như mí mắt của buổi sớm mai.

19 Từ miệng nó phát ra những ngọn đèn cháy, và những tia lửa nhảy ra .

20 Khói từ lỗ mũi nó bay ra, Như từ nồi hay chảo sôi.

21 Hơi thở nó đốt than hồng, Và ngọn lửa từ miệng nó phun ra .

22 Sức mạnh vẫn c̣n nơi cổ Ngài, Trước mặt Ngài nỗi buồn biến thành niềm vui.

23 Các thớ thịt của nó dính lại với nhau: Chúng chắc nịch; chúng không thể di chuyển được.

24 Ḷng người cứng như đá; vâng, cứng như một mảnh của cối xay nether.

25 Khi Ngài đứng dậy, kẻ quyền thế sợ hăi; V́ sự găy đổ, chúng thanh tẩy ḿnh.

26 Gươm của kẻ đă giáng vào nó không thể giữ được: giáo, mũi tên, và cả giáp.

27 Người coi sắt như rơm, Đồng như gỗ mục.

28 Mũi tên không làm nó chạy trốn: Đá ném đá cùng với nó biến thành rơm rạ.

29 Phi tiêu kể như rơm rạ: Hắn cười nhạo ngọn giáo lay động.

30 Dưới chân người có đá nhọn: Người rải vật nhọn trên vũng bùn.

31 Ngài khiến vực sâu sôi lên như cái nồi, Khiến biển cả như cái b́nh xức dầu.

32 Ngài mở đường soi sáng sau Ngài; người ta sẽ nghĩ rằng sâu là hoary.

33 Trên trái đất không có giống như anh ta, người được tạo ra mà không sợ hăi.

34 Người nh́n thấy mọi điều cao cả: Người là vua trên mọi con cái kiêu ngạo .

 

C̣n những mô tả trong Kinh thánh về rồng th́ sao? Kinh Thánh chứa đầy những ẩn dụ miêu tả chim bồ câu, sói dữ, rắn xảo quyệt, cừu và dê, tất cả đều là những loài động vật có trong tự nhiên ngày nay. Tại sao một con rồng, được nhắc đến nhiều lần trong Cựu Ước và Tân Ước, và trong văn học cũ, lại là một ngoại lệ? Khi Sáng thế kư (1:21) kể về cách Chúa tạo ra các loài động vật biển lớn, quái vật biển (bản sửa đổi) (Gen 1:21 Và Chúa đă tạo ra những con cá voi lớn, và mọi sinh vật sống di chuyển, được nước mang lại dồi dào, sau khi chúng loại, và mọi loài chim có cánh tùy theo loại: và Đức Chúa Trời thấy rằng điều đó là tốt lành) . Ví dụ, những câu thơ sau đề cập đến rồng:

 

- (Gióp 30:29) Tôi là anh em của rồng , và là bạn đồng hành của loài cú.

 

- (Thi thiên 44:19) Mặc dù Ngài đă làm chúng tôi đau đớn trong nơi của những con rồng , và bao phủ chúng tôi bằng bóng chết.

 

- (Ê-sai 35: 7) Và vùng đất khô cằn sẽ trở thành một cái ao, và vùng đất khô cằn sẽ có những ḍng nước: trong nơi ở của rồng , nơi mỗi con nằm, sẽ là cỏ với lau sậy và cói.

 

- (Ê-sai 43:20) Thú đồng, rồng và cú sẽ tôn vinh ta: v́ ta ban nước trong đồng vắng, và sông trong sa mạc, Để dân ta, những người được chọn của ta, uống.

 

- ( Giê-rê-mi 14: 6 ) Và những con lừa rừng đă đứng ở những nơi cao, chúng hít gió như những con rồng ; mắt họ ḷa v́ không có cỏ.

 

- (Jer 49:33) Và Hazor sẽ là nơi ở của rồng , và là nơi hoang tàn măi măi: sẽ không có người ở tại đó, cũng như không có con người nào ở trong đó.

 

- (Mi-chê 1:8) V́ vậy, tôi sẽ than khóc và tru tréo, tôi sẽ lột trần và trần truồng: Tôi sẽ kêu khóc như rồng , và than khóc như chim cú.

 

- (Mal 1: 3) Và tôi ghét Esau, và đặt những ngọn núi và di sản của anh ta hoang vu cho những con rồng của vùng hoang dă.

 

- (Thi thiên 104:26) Những con tàu đi ḱa: có con thủy quái đó, người mà bạn đă làm để chơi trong đó.

 

- ( Gióp 7:12 ) Tôi là biển hay cá voi , mà bạn canh giữ tôi? (bản sửa đổi: quái vật biển, trong tiếng Do Thái tanin, có nghĩa là rồng)

 

- (Gióp 26:12,13) ​​Ngài dùng quyền năng phân chia biển, và bằng sự hiểu biết của ḿnh, Ngài đánh bại kẻ kiêu ngạo.

13 Nhờ thần khí, Ngài trang trí các tầng trời; bàn tay của anh ta đă tạo ra con rắn cong.

 

- (Tv 74:13,14) Chúa đă lấy sức ḿnh mà chia biển: Chúa bẻ đầu rồng trong nước.

14 Chúa bẻ đầu yêu tinh ra từng mảnh, Ban cho nó làm thịt cho dân cư trong đồng vắng.

 

- (Thi thiên 91:13) Bạn sẽ giẫm lên sư tử và con rắn hổ mang: sư tử con và con rồng , bạn sẽ giày đạp dưới chân.

 

- (Ê-sai 30:6) Gánh nặng của những con thú phương nam: vào xứ rắc rối và thống khổ, từ đâu đến sư tử già và trẻ, rắn độc và rắn lửa bay , chúng sẽ mang của cải trên vai những người trẻ tuổi lừa, và của cải của chúng trên bầy lạc đà, cho một dân tộc sẽ không thu được lợi nhuận từ chúng.

 

- (De 32:32,33) V́ nho của họ là nho của Sodom, và của cánh đồng Gomorrah: nho của họ là nho mật, chùm của chúng rất đắng:

33 Rượu của chúng là nọc độc của rồng , Là nọc độc độc ác của rắn hổ mang.

 

- (Nê-hê-mi 2:13) Ban đêm, tôi đi ra ngoài qua cổng trũng, ngay trước giếng rồng , và đến bến phân, và xem các tường thành Giê-ru-sa-lem đă bị phá hủy, và các cổng của nó đă bị tiêu hủy với lửa.

 

- (Ê-sai 51:9) Hăy thức dậy, hăy thức dậy, hăy mạnh mẽ lên, hỡi cánh tay của Đức Giê-hô-va; thức dậy, như trong những ngày xa xưa, trong các thế hệ cũ. Chẳng phải chính ông đă chém Ra-háp và làm bị thương con rồng đó sao?

 

- (Ê-sai 27:1) Trong ngày đó, Đức Giê-hô-va sẽ dùng thanh gươm đau, lớn và mạnh của Ngài trừng phạt leviathan con rắn đâm xuyên, thậm chí cả leviathan con rắn cong queo đó; và anh ta sẽ giết con rồng ở dưới biển.

 

- (Jer 51:34) Nebuchadrezzar, vua của Babylon, đă nuốt chửng tôi, nghiền nát tôi, biến tôi thành một cái b́nh trống rỗng, nuốt chửng tôi như một con rồng , lấp đầy bụng ḿnh bằng những món ngon của tôi, anh ta đă ném tôi ra.

 

Ngụy thư của Cựu Ước và những con rồng . Thế c̣n ngụy thư của Cựu Ước th́ sao? Chúng cũng chứa một số đề cập đến rồng, được coi là động vật có thật chứ không phải là sinh vật hư cấu. Tác giả của Sách Sirach viết rằng anh ta thà sống với sư tử và rồng c̣n hơn là sống với người vợ độc ác của ḿnh. Các phần bổ sung của Sách Esther kể về giấc mơ của Mordecai (Mordecai trong Kinh thánh), khi anh nh́n thấy hai con rồng lớn. Daniel cũng phải đối mặt với một con rồng khổng lồ, được người Babylon tôn thờ. Điều này cho thấy làm thế nào những con vật này có thể đă phát triển đến tỷ lệ rất lớn.

 

- (Sirach 25:16)  Tôi thà ở với sư tử và rồng, hơn là ở nhà với một người đàn bà độc ác .

 

- (Sự khôn ngoan của Salomon 16:10) Nhưng các con trai của ngươi không bị răng của  những con rồng độc  khuất phục: v́ ḷng thương xót của ngươi luôn ở bên họ và chữa lành cho họ.

 

- (Huấn ca 43:25) V́ ở đó có những công tŕnh kỳ lạ và kỳ diệu, đủ loại thú dữ và cá voi được tạo ra.

 

- (Những phần bổ sung cho Ê-xơ-tê 1:1,4,5,6) Mạc-đô-chê, một người Do Thái thuộc chi phái Bên-gia-min, bị lưu đày cùng với Vua Giê-hô-gia-kin của Giu-đa, khi Vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn chiếm Giê-ru-sa-lem. Mạc-đô-chê là con trai Giai-rơ, ḍng dơi Kích và Si-mê-i.

4 Ông chiêm bao thấy có tiếng ồn ào và hỗn loạn, sấm sét lớn, động đất, và sự xáo trộn khủng khiếp trên mặt đất.

5  Sau đó, hai con rồng khổng lồ xuất hiện, sẵn sàng chiến đấu với nhau .

6  Họ gây ra một tiếng ồn khủng khiếp , và tất cả các quốc gia sẵn sàng gây chiến với quốc gia gồm những người công chính của Đức Chúa Trời.

 

- (Phần bổ sung cho Đa-ni-ên, Bên và Con rồng 1:23-30)  Và cũng tại nơi đó có một con rồng lớn , mà người Ba-by-lôn đă thờ phượng.

24  Vua nói với Đa-ni-ên rằng: Ngươi cũng nói rằng cái nầy bằng đồng sao? ḱa, nó sống, nó ăn và uống ; bạn không thể nói rằng anh ta không phải là một vị thần sống: v́ vậy hăy tôn thờ anh ta.

25Đa  -ni-ên tâu với vua rằng: Tôi sẽ thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tôi: v́ Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống.

26  Xin bệ hạ cho phép tôi đi, tôi sẽ giết con rồng này mà không cần gươm hay gậy. Nhà vua nói, tôi cho phép bạn đi.

27  Đa-ni-ên lấy hắc ín, mỡ và lông, đem nấu chung với nhau, làm thành những cục nhỏ, bỏ vào miệng con rồng, th́ con rồng vỡ ra từng mảnh. tôn thờ.

28  Dân Ba-by-lôn nghe tin ấy, vô cùng phẫn nộ, lập mưu nghịch cùng vua rằng: Vua đă trở thành người Giu-đa, đă diệt Bên, giết con rồng, và giết các thầy tế lễ.

29  Họ đến tâu với vua rằng: Hăy giao Đa-ni-ên cho chúng tôi, nếu không chúng tôi sẽ hủy diệt vua và cung điện vua.

30  Bấy giờ, khi vua thấy chúng ép người đau đớn, th́ giao Đa-ni-ên cho họ:


 

 REFERENCES:

 

1. J. Morgan: The End of Science: Facing the Limits of Knowledge in the Twilight of Scientific Age (1996). Reading: Addison-Wesley

2. Thoralf Gulbrandsen: Puuttuva rengas, p. 100,101

3. Stephen Jay Gould: The Panda’s Thumb, (1988), p. 182,183. New York: W.W. Norton & Co.

4. Niles Eldredge (1985): “Evolutionary Tempos and Modes: A Paleontological Perspective” teoksessa Godrey (toim.) What Darwin Began: Modern Darwinian and non-Darwinian Perspectives on Evolution

5. George Mc Cready Price: New Geology, lainaus A.M Rehnwinkelin kirjasta Flood, p. 267, 278

6. Kimmo Pälikkö: Taustaa 2, Kehitysopin kulisseista, p. 927.

7. Kimmo Pälikkö: Taustaa 2, Kehitysopin kulisseista, p. 194

8. Pekka Reinikainen: Unohdettu Genesis, p. 173, 184

9. Stephen Jay Gould: Catastrophes and steady state earth, Natural History, 84(2):15-16 / Ref. 6, p. 115.

10. Thoralf Gulbrandsen: Puuttuva rengas, p. 81

11. Toivo Seljavaara: Oliko vedenpaisumus ja Nooan arkki mahdollinen, p. 28

12. Uuras Saarnivaara: Voiko Raamattuun luottaa, p. 175-177

13. Scott M. Huse: Evoluution romahdus, p. 24

14. Many dino fossils could have soft tissue inside, Oct 28 2010,

news.nationalgeographic.com/news_/2006/02/0221_060221_dino_tissue_2.html

15. Nielsen-March, C., Biomolecules in fossil remains:

Multidisciplinary approach to endurance, The Biochemist 24(3):12-14, June 2002

; www.biochemist.org/bio/_02403/0012/024030012.pdf

16. Pekka Reinikainen: Darwin vai älykäs suunnitelma?, p. 88

17. Pekka Reinikainen: Dinosaurusten arvoitus ja Raamattu, p. 111

18. Pekka Reinikainen: Dinosaurusten arvoitus ja Raamattu, p. 114,115

19. http://creation.com/redirect.php?http://www. youtube.com/watch?v=QbdH3l1UjPQ

20. Matti Leisola: Evoluutiouskon ihmemaassa, p.146

21. J.S. Shelton: Geology illustrated

22. Pentti Eskola: Muuttuva maa, p. 114

23. Carl Wieland: Kiviä ja luita (Stones and Bones), p. 11

24. Pekka Reinikainen: Unohdettu Genesis, p. 179, 224

25. Wiljam Aittala: Kaikkeuden sanoma, p. 198

26. Kalle Taipale: Levoton maapallo, p. 78

27. Mikko Tuuliranta: Koulubiologia jakaa disinformaatiota, in book Usko ja tiede, p. 131,132

28. Francis Hitching: Arvoitukselliset tapahtumat (The World Atlas of Mysteries), p. 159

29. Pentti Eskola: Muuttuva maa, p. 366

30. Siteeraus kirjasta: Pekka Reinikainen: Dinosaurusten arvoitus ja Raamattu, p. 47

31. Scott M. Huse: Evoluution romahdus, p. 25

32. Pekka Reinikainen: Dinosaurusten arvoitus ja Raamattu, p. 90

 


 


 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

Jesus is the way, the truth and the life

 

 

  

 

Grap to eternal life!

 

Other Google Translate machine translations:

 

Hàng triệu năm / khủng long / sự tiến hóa của con người?
tiêu diệt khủng long
Khoa học trong ảo tưởng: lư thuyết vô thần về nguồn gốc và hàng triệu năm
Khủng long sống khi nào?

Lịch sử Kinh thánh
Lũ lụt

Đức tin Kitô giáo: khoa học, nhân quyền
Kitô giáo và khoa học
Đức tin Kitô giáo và nhân quyền

Tôn giáo phương Đông / Thời đại mới
Phật, Phật giáo hay Chúa Giêsu?
Luân hồi có thật không?

đạo Hồi
Những tiết lộ và cuộc đời của Muhammad
Thờ thần tượng trong Hồi giáo và ở Mecca
Kinh Koran có đáng tin cậy không?

câu hỏi đạo đức
Được giải thoát khỏi đồng tính luyến ái
Hôn nhân không phân biệt giới tính
Phá thai là hành vi phạm tội
An tử và dấu hiệu của thời đại

sự cứu rỗi
Bạn có thể được cứu