Nature


Main page | Jari's writings | Other languages

This is a machine translation made by Google Translate and has not been checked. There may be errors in the text.

   On the right, there are more links to translations made by Google Translate.

   In addition, you can read other articles in your own language when you go to my English website (Jari's writings), select an article there and transfer its web address to Google Translate (https://translate.google.com/?sl=en&tl=fi&op=websites).

                                                            

 

Hôn nhân và con cái không phân biệt giới tính

 

 

Hôn nhân và trẻ em phân biệt giới tính, tức là quyền con người của trẻ em bị chà đạp như thế nào khi các em bị từ chối quyền được gặp cha mẹ ruột - lấy lư do nhân quyền và quyền b́nh đẳng của người lớn

                                                          

Bài viết này thảo luận về hôn nhân phân biệt giới tính và ảnh hưởng của cấu trúc gia đ́nh đối với trẻ em. Những người ủng hộ hôn nhân trung lập về giới tính và ủng hộ tự do t́nh dục trong xă hội, hiếm khi nh́n mọi thứ từ góc độ của trẻ em. Họ không tính đến tác động mà các lựa chọn và luật pháp của người lớn có đối với trẻ em. Những người này chỉ nói về b́nh đẳng, nhân quyền và bất b́nh đẳng xă hội, nhưng họ quên rằng trẻ em cũng phải có nhân quyền. Họ nên có quyền từ khi sinh ra đối với cả cha và mẹ ruột của họ. Đó là vấn đề nếu điều này không được cấp. Mồ côi cha, mồ côi mẹ được coi là b́nh thường và đáng mong muốn. Những đứa trẻ sau đó được kỳ vọng sẽ thích nghi với thực tế là quyền cơ bản này đă bị tước đoạt khỏi chúng và thậm chí biết ơn v́ điều đó.

   Chủ đề này cũng thường cố gắng chuyển cuộc thảo luận về trẻ em sang quan điểm cho rằng việc phản đối hôn nhân phân biệt giới tính thể hiện sự kỳ thị và căm ghét người đồng tính luyến ái. Những người tuyên bố điều này nghĩ rằng họ biết và cảm nhận được suy nghĩ và cảm xúc bên trong của một người không đồng ư với quan điểm của họ. Họ không tính đến việc bạn có thể không đồng ư về mọi thứ chỉ dựa trên cơ sở thực tế, nhưng vẫn không ghét bất kỳ ai. Những người ủng hộ hôn nhân trung lập về giới tính cũng không tính đến việc nhiều người đồng tính phản đối vấn đề này. Họ thấy điều đó vi phạm quyền làm cha, làm mẹ của trẻ em. Người đồng tính vô thần Bongibault đă tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn (Wendy Wright, Người đồng tính Pháp tham gia biểu t́nh phản đối hôn nhân đồng tính):

 

Trước bất cứ điều ǵ khác, chúng ta phải bảo vệ đứa trẻ. Ở Pháp, mục đích của hôn nhân không phải là để bảo vệ t́nh yêu giữa hai người. Hôn nhân được thiết kế đặc biệt để cung cấp một gia đ́nh cho một đứa trẻ. Nghiên cứu nặng nề nhất cho đến nay - chỉ ra rơ ràng rằng những đứa trẻ lớn lên với cha mẹ là người đồng tính sẽ gặp khó khăn khi lớn lên. (1)

 

TẠI SAO MỌI NGƯỜI ỦNG HỘ HÔN NHÂN PHI GIỚI TÍNH? Khi cố gắng t́m hiểu xem mọi người có quan điểm ǵ về đồng tính luyến ái - đó là một phẩm chất bẩm sinh hay nó bị ảnh hưởng bởi các yếu tố nền tảng nhất định và phản ứng của chính người đó đối với họ - mọi người thường nghiêng về lựa chọn đầu tiên. Điều này thường được coi là một khuynh hướng bẩm sinh

    Bản chất bẩm sinh của đồng tính luyến ái cũng được nhiều người được gọi là đại diện của phong trào đồng tính Cơ đốc giáo (ví dụ, ở Phần Lan, phong trào Yhteys và phong trào Tulkaa kaikki) . Liisa Tuovinen, lănh đạo của phong trào Yhteys, đă đưa ra nhận thức chung này trong một cuộc thảo luận trên truyền h́nh vào năm 2002:

 

Xét cho cùng, Paul không có khái niệm về đồng tính luyến ái, đó là đặc điểm bẩm sinh của con người đến mức không thể thay đổi. (2)

 

Khi đồng tính được hiểu như một đặc tính bẩm sinh, chắc chắn đó cũng là một trong những lư do lớn nhất khiến hôn nhân phân biệt giới tính và lối sống đồng giới được nh́n nhận tích cực trong xă hội ngày nay. Thiết nghĩ nếu đó là một đặc điểm bẩm sinh như màu da hay thuận tay trái th́ việc bênh vực lối sống đồng tính và những người có đặc điểm đó chẳng phải là đúng hay sao? Không phải là đúng khi hỗ trợ mọi người trong sự lựa chọn t́nh dục của họ?

    Nhưng sự thật của vấn đề là ǵ? Bản thân nhiều người đồng tính phủ nhận đó là bẩm sinh. Một số người có thể cho rằng đó là bẩm sinh, nhưng nhiều người thừa nhận rằng hoàn cảnh và sự quyến rũ t́nh dục đồng giới đă đóng một vai tṛ quan trọng trong việc h́nh thành khuynh hướng của họ. Đây cũng là những khái niệm phổ biến trong tâm lư học cách đây vài thập kỷ.

    V́ vậy, đó là một điều tương tự với sự cay đắng hoặc lư do tại sao tội phạm thường đến từ một số loại hoàn cảnh. Không ai có thể lựa chọn hoàn cảnh lớn lên của ḿnh và những ǵ đă gây ra cho họ, nhưng một người có thể tự ḿnh lựa chọn xem ḿnh có muốn tha thứ hay không, liệu ḿnh có trở thành tội phạm hay thực hành đồng tính luyến ái hay không. Anh ta có thể bị cám dỗ để làm những điều này, nhưng ở một mức độ nào đó, anh ta có thể chọn cách ḿnh muốn sống:

 

Tôi đă đọc một nghiên cứu thú vị của một chuyên gia: đó là một cuộc khảo sát để t́m hiểu xem có bao nhiêu người đồng tính luyến ái tin rằng họ được sinh ra theo cách đó. 85% số người được phỏng vấn cho rằng đồng tính luyến ái của họ là một cách cư xử có học gây ra bởi ảnh hưởng tiêu cực từ rất sớm trong gia đ́nh họ và sự dụ dỗ của người khác.

   Ngày nay, câu hỏi đầu tiên của tôi khi gặp gỡ một người đồng giới thường là “Ai đă truyền cảm hứng cho bạn về chuyện ấy?” Tất cả họ đều có thể trả lời tôi. Sau đó, tôi sẽ hỏi: “Điều ǵ sẽ xảy ra với bạn và giới tính của bạn nếu bạn không gặp chú của ḿnh, hoặc nếu anh họ của bạn không bước vào cuộc đời bạn? Hay không có cha dượng? Bạn nghĩ điều ǵ sẽ xảy ra?” Đây là khi tiếng chuông bắt đầu vang lên. Họ nói, “Có thể, có thể, có thể.” (3)

 

Tuy nhiên, Ole không tin rằng có một loại "gen đồng tính luyến ái" nào đó. Anh ấy tin rằng nguyên nhân của t́nh cảm đồng giới phức tạp hơn, và anh ấy đề cập, chẳng hạn, rằng anh ấy biết nhiều cặp sinh đôi giống hệt nhau mà chỉ một trong số họ là đồng tính luyến ái.

   Ole tin rằng nhiều yếu tố đă góp phần vào hành vi của anh ấy, chẳng hạn như mối quan hệ phức tạp và tồi tệ của anh ấy với cha ḿnh khi anh ấy c̣n nhỏ.

   Ole không ḱm nén được khi kể về mối quan hệ của anh với cha ḿnh khi c̣n nhỏ. Anh cảm thấy rằng cha anh không bao giờ ở đó và anh sợ cha ḿnh. Người cha đôi khi nổi cơn thịnh nộ, và Ole một vài lần cảm thấy rằng cha anh cố t́nh làm bẽ mặt anh ở nơi công cộng. Ole nói thẳng rằng anh ấy ghét cha ḿnh. (4)

 

Harri quan tâm đến các cuộc thảo luận về đồng tính luyến ái trên các phương tiện truyền thông và nghiên cứu về đồng tính luyến ái. Ông tin chắc rằng đồng tính luyến ái có rất ít liên quan đến các yếu tố bẩm sinh. Chẳng hạn, quan điểm này của ông dựa trên thực tế là thường dễ dàng t́m ra lư do tại sao mọi người có khuynh hướng đồng tính luyến ái. Họ thường là nạn nhân của bạo lực t́nh dục hoặc có mối quan hệ khó khăn với cha mẹ hoặc bạn bè đồng trang lứa.

   "Điều này đă thuyết phục tôi rằng trước hết không phải là do gien. Tuy nhiên, tôi không nghĩ rằng một số người không thể có một số gien khiến họ dễ bị khuynh hướng đồng tính luyến ái hơn," Harri nói. (5)

 

Trong trường hợp của ḿnh, Tepi tin rằng đồng tính luyến ái là do cô ấy có một số thiếu sót về cảm xúc mà cô ấy đang cố gắng lấp đầy. Tepi nói rằng cô ấy sợ cha ḿnh khi c̣n nhỏ và vẫn c̣n "sợ đàn ông như vậy". Tepi nói rằng cô ấy đang t́m kiếm một người mẹ trong số những người phụ nữ. Mặc dù Tepi nghĩ về lư do khiến ḿnh theo chủ nghĩa đồng tính nữ, nhưng cô ấy cũng nói về t́nh cảm của ḿnh với phụ nữ: "V́ nó diễn ra một cách tự nhiên đến mức đáng kinh ngạc, đôi khi tôi thực sự tự hỏi làm thế nào mà mọi chuyện lại có thể diễn ra như vậy." Mặt khác, cô ấy tin rằng cũng có lư do cho việc này.

   Tepi không tin rằng đồng tính luyến ái là do gen hoặc một người có thể là đồng tính nam hoặc đồng tính nữ từ khi sinh ra. Theo ư kiến ​​​​của cô ấy, một người lớn lên là đồng tính nam hoặc đồng tính nữ, thậm chí không có bất kỳ rối loạn đặc biệt nào. (6)

 

Tất nhiên, tôi cũng như nhiều người đồng tính khác, tự hỏi đồng tính luyến ái bắt nguồn từ đâu. Tôi tin rằng nhân cách của một đứa trẻ được h́nh thành trong ba năm đầu đời, kể cả về mặt t́nh dục. Điều này bị ảnh hưởng bởi cả môi trường và sinh học của con người. Tôi hoàn toàn không tin rằng đồng tính luyến ái là do di truyền. Đối với một số người thân của tôi, đồng tính luyến ái của tôi rất khó chính xác v́ họ sợ khả năng di truyền của nó. (7)

 

Đồng tính luyến ái có phải do gen? Như đă lưu ư, cách giải thích tiêu chuẩn thông thường cho đồng tính luyến ái hiện nay là nó bẩm sinh và do gen, hoặc hormone bài tiết trong thai kỳ. Mọi người cho rằng đồng tính chủ yếu là do yếu tố sinh học.

    Tuy nhiên, lời giải thích này không được hỗ trợ bởi các nghiên cứu về cặp song sinh. Các cặp song sinh giống hệt nhau có cùng một gen và cùng một môi trường trong bụng mẹ, nhưng chỉ một trong số họ có thể quan tâm đến giới tính của ḿnh. Nếu đồng tính luyến ái là do gen gây ra th́ điều này không nên xảy ra. Đoạn trích sau đây là từ một nghiên cứu lớn về chủ đề này, được thực hiện ở Canada và có sự tham gia của khoảng 20.000 đối tượng. Nó cho thấy gen và sự di truyền không phải là yếu tố quyết định trong nguồn gốc của đồng tính luyến ái.

 

Một nghiên cứu về cặp song sinh ở Canada cho thấy yếu tố xă hội quan trọng hơn gen (…)

   Kết quả nghiên cứu cho thấy gen không có bất kỳ ư nghĩa quan trọng nào. Nếu một trong hai cặp sinh đôi giống hệt nhau là đồng tính luyến ái, th́ có 6,7% khả năng người sinh đôi kia cũng quan tâm đến người cùng giới. Tỷ lệ sinh đôi không giống hệt nhau là 7,2% và đối với anh chị em b́nh thường là 5,5%. Những kết quả này hoàn toàn không đồng ư với mô h́nh di truyền nói trên cho đồng tính luyến ái.

   Môi trường mà các cặp song sinh phát triển bên trong tử cung của người mẹ hoàn toàn giống nhau đối với cả hai cặp song sinh về mặt hormone, và do đó, kết quả mà Bearman và Brucker thu được đă bác bỏ giả thuyết cho rằng sự mất cân bằng hormone của người mẹ khi mang thai gây ra đồng tính luyến ái.

   (...) Các nghiên cứu song sinh trước đây đă lấy đối tượng của họ tại các pḥng khám hoặc thông qua các tổ chức đồng tính luyến ái, hoặc nói cách khác là có một mẫu hạn chế. Bearman và Brucker tuyên bố rằng nghiên cứu của họ là nghiên cứu đáng tin cậy nhất v́ nó dựa trên việc lấy mẫu ngẫu nhiên từ một nghiên cứu về thanh niên trên toàn quốc. Có khoảng 20.000 đối tượng thử nghiệm! Hơn nữa, các nhà nghiên cứu không dựa vào những ǵ một trong hai cặp song sinh nói về xu hướng tính dục của người song sinh: Thay vào đó, họ t́m đến cặp song sinh kia và hỏi họ về điều đó.  (số 8)

 

Các nhà nghiên cứu về đồng tính luyến ái nói chung không tin vào bản chất bẩm sinh của đồng tính luyến ái. Olli Stålström, một thành viên sáng lập của phong trào Seta Phần Lan, đă nêu vấn đề này trong luận văn Homoseksuaalisuuden sairausleiman loppu (Chấm dứt kỳ thị đồng tính luyến ái như một căn bệnh, 1997). Ông tuyên bố rằng các nhà nghiên cứu về đồng tính luyến ái đă không ủng hộ thuyết "tôi sinh ra là đồng tính" trong một thời gian dài. Ông nhắc đến hai cuộc hội thảo khoa học có hàng trăm nhà khoa học tham dự:

 

Hai cuộc hội thảo khoa học tháng 12 năm 1987 có thể coi là một điểm mấu chốt trong lịch sử…

có sự tham gia của 100 nhà nghiên cứu về đồng tính luyến ái từ 22 quốc gia khác nhau trong 100 nhóm làm việc… Các hội nghị cũng nhất trí rằng việc thay thế cách phân loại đồng tính luyến ái là một rối loạn tâm thần bằng các lư thuyết về bản chất bẩm sinh là không hợp lư. Nh́n chung, người ta thấy cần phải bác bỏ quan điểm bản chất về đồng tính luyến ái, theo đó đồng tính luyến ái sở hữu một bản chất độc lập với thời gian và văn hóa có một nguyên nhân nhất định. (tr. 299-300)

 

Những đứa trẻ hoang dă . Một dấu hiệu cho thấy mức độ liên quan đến t́nh dục với hoàn cảnh và các yếu tố môi trường là những đứa trẻ nhỏ bị bỏ rơi để sống với động vật. Họ hoàn toàn không có hứng thú t́nh dục. Điều này cho thấy tính dục của con người cũng chịu sự tác động của các yếu tố xă hội. Sinh học không phải là yếu tố quyết định duy nhất. Nhà nghiên cứu tâm lư học phát triển và trợ lư giáo sư tâm lư học, Risto Vuorinen, kể trong cuốn sách Minän synty ja kehitys [Sự ra đời và phát triển bản thân] (1997) của ông về những đứa trẻ nhỏ bị bỏ rơi này, được gọi là trẻ hoang dă, được nuôi dưỡng bởi động vật. Nếu giới tính chỉ do gen quyết định th́ đă không có những trường hợp như vậy:

 

Vô tính của trẻ em hoang dă là một khám phá quan trọng. Mặc dù đă trưởng thành về thể chất nhưng chúng không thể hiện bất kỳ hứng thú t́nh dục nào... Dường như có một giai đoạn quan trọng ban đầu đối với sự phát triển của t́nh dục.

 

Nhiều người ủng hộ hôn nhân trung lập về giới tính đă trực tiếp thừa nhận rằng lập luận bẩm sinh là không đúng hoặc không có cơ sở. Một trong số họ là John Corvino, người không tin rằng đồng tính luyến ái là một đặc điểm bẩm sinh. Ông đă tuyên bố: “Nhưng một lập luận tồi là một lập luận tồi, cho dù có thể rút ra những kết luận thú vị - và đúng đắn đến đâu từ nó" (9)

   Nghiên cứu cho thấy bản sắc t́nh dục cũng có thể thay đổi ở một mức độ nào đó theo tuổi tác, nhưng thường là theo hướng dị tính thông thường. Đối với một số người trẻ tuổi, bản sắc giới tính của họ có thể vẫn chưa rơ ràng, nhưng khi lớn lên, hầu hết họ sẽ t́m thấy một bản dạng giới khác giới b́nh thường:

 

Một nghiên cứu quy mô lớn của Mỹ công bố năm 2007 về sự thay đổi nhận dạng giới tính của thanh niên 16-22 tuổi cho thấy xu hướng đồng tính hoặc song tính có khả năng chuyển sang dị tính trong ṿng một năm cao gấp 25 lần so với ngược lại. Đối với hầu hết thanh thiếu niên, t́nh cảm đồng giới giảm dần theo tuổi tác. Khoảng 70 phần trăm nam thanh niên 17 tuổi bày tỏ sự quan tâm đơn phương về t́nh dục đồng giới đă bày tỏ quan hệ dị tính đơn phương ở tuổi 22. (Savin-Williams & Ream 2007: 385 tr.) (10)

 

LUẬT HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG CÓ PHÂN BIỆT KHÔNG? Một lập luận cho hôn nhân trung lập về giới tính là luật hôn nhân truyền thống là phân biệt đối xử. Đó là lư do tại sao những người ủng hộ hôn nhân trung lập về giới nói về b́nh đẳng và cuộc chiến chống phân biệt đối xử, khi họ bảo vệ ư kiến ​​​​của ḿnh. Các phương tiện truyền thông cũng có thể đưa ra những thông điệp đẹp đẽ về nhân quyền và b́nh đẳng.

 

Quyền kết hôn cho mọi người trưởng thành và thay đổi ư nghĩa của hôn nhân . Khi nói về sự phân biệt đối xử trong luật hôn nhân truyền thống, cần phải khẳng định rằng tất cả những người trưởng thành đều có quyền kết hôn. Không có ngoại lệ ở đây. Bất kỳ nam hay nữ trưởng thành nào cũng có thể kết hôn với người khác giới. Như vậy, luật hôn nhân truyền thống vốn đă b́nh đẳng, không phân biệt đối xử với bất kỳ ai. Nói khác đi là trái với thực tế.

    Thay vào đó, nỗ lực mở rộng hôn nhân cho các cặp đồng giới cũng làm thay đổi ư nghĩa của hôn nhân. Từ hôn nhân mang một ư nghĩa mới mà trước đây nó không có. Nó giống như lập luận rằng, chẳng hạn, mối quan hệ việc làm b́nh thường giữa chủ và nhân viên có nghĩa là hôn nhân, hoặc xe đạp và máy bay là ô tô, ngay cả khi không phải vậy. Từ này, trong nhiều thế kỷ trong lịch sử loài người, được hiểu chỉ có nghĩa là mối quan hệ giữa một người đàn ông và một người vợ, do đó thay đổi nghĩa sang một nghĩa khác thông qua khái niệm hôn nhân trung lập về giới tính. Nó thay đổi một tập tục đă phổ biến trong tất cả các nền văn hóa lớn trong hàng ngàn năm.

 

Các h́nh thức t́nh cảm khác. Nói rằng một luật hôn nhân trung lập về giới tính sẽ loại bỏ bất b́nh đẳng và phân biệt đối xử là một lập luận tồi bởi v́ có những loại mối quan hệ khác. Bởi v́ nếu một mối quan hệ đồng giới được gọi là hôn nhân, th́ làm sao người ta có thể biện minh cho việc loại trừ các loại quan hệ khác khỏi cùng một luật? Tại sao chỉ nên đưa thiểu số đồng tính luyến ái vào luật hôn nhân? Nếu chúng ta tuân theo logic tương tự mà mọi người hiện đang cố gắng bảo vệ vấn đề này, th́ các loại mối quan hệ sau đây cũng nên được đưa vào phạm vi điều chỉnh của luật. Nếu họ bị loại trừ, th́ theo logic tương tự, đó là sự phân biệt đối xử và hỗ trợ cho sự bất b́nh đẳng. Những kết quả như vậy đạt được nếu chúng ta tuân theo các giả định của những người ủng hộ hôn nhân trung lập về giới tính và khi chúng ta thay đổi ư nghĩa của từ hôn nhân:

 

• Mối quan hệ giữa mẹ và con gái khi họ sống trong cùng một gia đ́nh

 

• Người đàn ông sống với con chó của ḿnh

 

• Quan hệ đa thê

 

• Hai sinh viên sống cùng kư túc xá

 

• Quan hệ loạn luân cũng là một dạng. Ngay cả những người ủng hộ hôn nhân đồng tính nói chung cũng không tán thành những mối quan hệ như vậy v́ họ cho rằng chúng là sai trái về mặt đạo đức. Tuy nhiên, những người có thái độ tiêu cực đối với hôn nhân phân biệt giới tính có thể từ chối nó v́ lư do tương tự. Họ có thể coi đó là sai trái về mặt đạo đức.

 

Giáo sư, Anto Leikola, đă viết về vấn đề này trên tạp chí [Đại học] Yliopisto (8/1996) với nhan đề Olisiko rakkauskin rekisteröitävä? [T́nh yêu cũng nên được đăng kư chứ?] . Ông nói rằng theo logic tương tự, sẽ không phù hợp nếu chỉ giới hạn vấn đề đối với người đồng tính luyến ái. Tại sao chỉ nên đưa họ vào phạm vi điều chỉnh của luật hôn nhân, trong khi c̣n có nhiều loại quan hệ khác lệch chuẩn mực?

 

Điều ǵ sẽ xảy ra nếu hai anh chị em rất gắn bó với nhau, muốn cùng nhau sở hữu một căn hộ và hơn thế nữa, thậm chí c̣n nhận nuôi một đứa con chung? Tại sao điều đó lại khó khăn hơn đối với họ so với những người đồng tính luyến ái? Có phải v́ có t́nh yêu giữa người sau, mà không phải giữa người trước, hay giữa những người khác chỉ là bạn bè? …Nói chung, việc đăng kư quan hệ đối tác là một sự kiện xă hội …Nếu một cơ hội như vậy được trao cho những người cùng giới, tôi vẫn không hiểu tại sao lại chỉ giới hạn cho những người đồng tính luyến ái. Hay chúng ta nghĩ rằng tất cả những người cùng giới tính, sống với nhau và gắn bó với nhau đều là đồng tính luyến ái? Hay chúng ta cho rằng đồng tính luyến ái không liên quan ǵ đến t́nh dục... Nếu chúng ta cho rằng việc đăng kư các mối quan hệ đồng giới là điều mong muốn chứ không phải những người khác, th́ thực tế đó là vấn đề đăng kư xu hướng tính dục,

 

Hầu hết những người đồng tính luyến ái không t́m kiếm hôn nhân . Khi hôn nhân trung lập về giới được theo đuổi, một trong những điểm chính là cuộc chiến chống phân biệt đối xử và bất b́nh đẳng. Người ta từng cho rằng hôn nhân trung lập về giới tính, nơi các cặp đồng giới có thể kết hôn với nhau, sẽ xóa bỏ sự phân biệt đối xử.

    Tuy nhiên, thực tế là ở những quốc gia mà hôn nhân đồng giới đă có hiệu lực từ lâu, chỉ một số ít muốn kết hôn. Ở Hà Lan, hôn nhân đồng tính đă có hiệu lực từ mười năm nay, nhưng chỉ có 20% các cặp đồng giới kết hôn. So với các cá nhân, con số thậm chí c̣n thấp hơn. Theo một số ước tính, chỉ có 8% người đồng tính bước vào hôn nhân. Trên thực tế, những con số cho thấy chỉ một số ít người đồng tính quan tâm đến việc kết hôn. Thay vào đó, tuyệt đại đa số họ không muốn (theo cách nghĩ của những người ủng hộ) được trải nghiệm sự b́nh đẳng và không bị phân biệt đối xử.

 

TRẠM TRẺ EM . Như đă nêu, hôn nhân không phân biệt giới tính là hợp lư trên quan điểm b́nh đẳng và là một vấn đề nhân quyền. Người ta đă giải thích rằng việc chấp nhận vấn đề này sẽ loại bỏ sự không công bằng của pháp luật.

    Tuy nhiên, chủ đề này mới chỉ được xem xét dưới góc độ của người lớn và trẻ em đă bị lăng quên. Luật hôn nhân trung lập về giới tính thực sự là một vấn đề nhân quyền, nhưng ngược lại với những ǵ được ngụ ư: nó có nghĩa là vi phạm nhân quyền của trẻ em. Bởi v́ trong những trường hợp các cặp đồng giới có ư định sinh con (ví dụ, có thể thông qua ngân hàng tinh trùng và cho thuê tử cung hoặc một trong những người đồng tính đă có quan hệ dị tính tạm thời), điều đó có nghĩa là tách đứa trẻ khỏi cha ruột của nó hoặc mẹ từ khi mới sinh ra chỉ v́ người lớn coi hôn nhân không phân biệt giới tính là quyền của họ. Do đó, luật hôn nhân trung lập về giới tính phân biệt đối xử với trẻ em và gây thiệt hại cho người lớn. Các quyền tự do của người lớn được đặt trước các quyền cơ bản của trẻ em.

    Dĩ nhiên có những trường hợp một đứa trẻ phải lớn lên không cha không mẹ, nhưng cố t́nh để một đứa trẻ mồ côi cha, không mẹ chỉ để thỏa măn mong muốn của người lớn lại là chuyện khác. Đây là những ǵ xảy ra trong một cuộc hôn nhân trung lập về giới tính nơi có con.

    Ở Pháp, chính nhiều người đồng tính đă có quan điểm về vấn đề này. Họ cho rằng luật hôn nhân phân biệt giới tính vi phạm quyền được có cha và mẹ của trẻ em. Đây là lư do tại sao họ từ chối hôn nhân phân biệt giới tính:

 

Jean-Pierre Delaume-Myard: Tôi có phải là một người kỳ thị đồng tính luyến ái không… Tôi phản đối hôn nhân trung lập về giới tính, bởi v́ tôi bảo vệ quyền có cha và mẹ của một đứa trẻ. (11)

 

Jean-Marc Veyron la Croix: Ai cũng có giới hạn của ḿnh: việc tôi không có con và nhớ con không cho tôi quyền tước đoạt t́nh thương của một người mẹ từ một đứa trẻ. (12)

 

Hervé Jourdan: Trẻ em là kết quả của t́nh yêu và nó phải là kết quả của t́nh yêu. (13)

 

Có con . Khi nói đến quan hệ khác giới, họ có một điểm khác biệt lớn so với quan hệ đồng giới: chỉ có quan hệ khác giới mới có thể có con, người sau th́ không. Đây cũng là một trong những lư do lớn nhất giải thích tại sao hôn nhân vợ chồng là điểm khởi đầu tốt nhất cho con cái. Nó mang đến cho trẻ em cơ hội lớn lên dưới sự chăm sóc của cha mẹ ruột ngay từ đầu.

    Mặt khác, vấn đề với các mối quan hệ đồng tính luyến ái là nếu những đứa trẻ có được thông qua các mối quan hệ khác giới tạm thời hoặc thông qua các phương pháp nhân tạo như cho thuê tử cung hoặc ngân hàng tinh trùng, th́ đứa trẻ sẽ trở thành mồ côi cha hoặc mẹ. Anh ấy/cô ấy đang thiếu ít nhất một trong số cha mẹ ruột của ḿnh ở nhà, những người mà anh ấy có thể lớn lên cùng. Đứa trẻ ngay từ đầu đă phải sống thiếu cha mẹ ruột bởi sự lựa chọn của người lớn.

    Bản thân những người lớn lên trong một gia đ́nh đồng tính luyến ái đă chỉ trích tập tục tước đoạt quyền làm cha, làm mẹ của trẻ em theo cách này; bằng cách kêu gọi b́nh đẳng giữa người lớn. Họ bị tước quyền có cha hoặc mẹ.

    Jean-Dominique Bunel, người lớn lên với người mẹ đồng tính nữ và người bạn đời nữ của bà, kể về trải nghiệm của anh ấy. Anh đau khổ v́ thiếu cha. Ở một nơi khác, anh ấy cũng nói rằng nếu hôn nhân trung lập về giới tính đă có hiệu lực khi anh ấy lớn lên, anh ấy sẽ kiện nhà nước v́ nó cho phép vi phạm quyền của con anh ấy:

 

Tôi cảm thấy thiếu cha như bị cắt cụt… Tôi đau khổ v́ thiếu cha, thiếu sự hiện diện hàng ngày của ông, tính cách nam tính và tấm gương có thể cân bằng mối quan hệ của mẹ tôi với t́nh nhân của bà. Tôi đă ư thức được khuyết điểm này từ rất sớm. (14)

 

Các b́nh luận dưới đây cũng giải quyết vấn đề này. Sự vắng mặt của cha hoặc mẹ là nguyên nhân khiến trẻ em cảm thấy khó khăn khi lớn lên trong môi trường đồng tính luyến ái. Vấn đề không phải là liệu cha hoặc mẹ đồng tính luyến ái có không đủ khả năng nuôi dạy con cái hay không, mà là vấn đề cố t́nh tước đi sự hiện diện của cha/mẹ ruột khác của đứa trẻ ngay từ khi sinh ra:

 

Robert Oscar Lopez (2012) chỉ trích luận điệu kỳ thị đồng tính luyến ái là định kiến ​​và hẹp ḥi, bởi v́ nó cũng gán cho những người như anh ấy là kỳ thị đồng tính luyến ái, những người lớn lên trong nhà của một cặp đồng tính nữ, sống phần lớn cuộc đời của họ trong một nền văn hóa đồng tính luyến ái, nhưng những người vẫn phản đối hôn nhân trung lập về giới tính v́ họ cho rằng nó vi phạm quyền của trẻ em đối với cha và mẹ. Theo Lopez, thật khó để bị coi là kỳ thị đồng tính chỉ v́ anh ấy công khai nói rằng anh ấy đă trải qua cảm giác khó khăn khi thiếu cha khi lớn lên trong ngôi nhà có mẹ và bạn gái của bà. "Cho dù một cặp đồng giới t́m cách tái tạo mô h́nh nuôi dạy con cái khác giới thông qua đẻ thuê, thụ tinh nhân tạo, ly hôn hoặc nhận con nuôi thương mại, th́ họ đang gặp nhiều rủi ro về đạo đức. Trẻ em, những người thấy ḿnh ở giữa những rủi ro đạo đức này, nhận thức rơ về vai tṛ của cha mẹ trong việc tạo ra một cuộc sống căng thẳng và phức tạp về cảm xúc khiến họ tách biệt khỏi các truyền thống văn hóa như Ngày của Cha và Mẹ. Vị trí của trẻ em trở nên khó khăn, khi chúng bị gọi là 'kỳ thị đồng tính' chỉ v́ chúng phải chịu đựng - và thừa nhận điều đó - sự căng thẳng tự nhiên do cha mẹ chúng áp đặt lên chúng. (Lopez 2013.) (15)

 

Khi những đứa trẻ có được thông qua các phương pháp nhân tạo như thuê tử cung và ngân hàng tinh trùng, chúng ta phải đối mặt với vô số vấn đề đạo đức. Vấn đề của việc cho thuê dạ con là người mẹ phải bỏ đứa con đang mang trong ḿnh. Nó được đặt ra như một mục tiêu trong việc cho thuê tử cung. Cô ấy phải ḱm nén t́nh cảm của ḿnh với đứa trẻ và được trả tiền cho nó. Cô ấy bán quyền của ḿnh cho một đứa trẻ mà cô ấy có thể không bao giờ gặp lại. Tuy nhiên, đối với nhiều người, điều này có thể là quá nặng nề v́ bản năng làm mẹ khiến họ muốn chấm dứt hợp đồng mang thai hộ. Những người phụ nữ này hiểu rằng họ yêu đứa trẻ bên trong họ, điều đó đă khiến họ thay đổi suy nghĩ.

    Ngoài ra, việc cho thuê tử cung có vấn đề đối với trẻ em. Bởi v́ khi người mẹ từ bỏ quyền của ḿnh đối với đứa trẻ, đứa trẻ có thể cảm thấy như bị bỏ rơi. Câu hỏi có thể đặt ra cho anh ta, tại sao mẹ anh ta bán anh ta để lấy tiền và không quan tâm. Trong số những người khác, trang web AnonymousUS.org của Alana Newman kể về những trải nghiệm và cảm xúc của những đứa trẻ như vậy.

    Frank Litgvoet, người sống trong mối quan hệ đồng tính luyến ái, kể chân thực về một trường hợp tương tự. Anh kể về những đứa con nuôi nhớ mẹ. Thật khó khăn và đau đớn cho những đứa trẻ để hiểu tại sao người mẹ lại bỏ con ḿnh ngay từ đầu:

 

T́nh huống của một đứa trẻ “không mẹ” được nhận làm con nuôi công khai không đơn giản như vẻ ngoài của nó, bởi v́ nó liên quan đến người mẹ sinh ra đời, người bước vào cuộc đời của đứa trẻ rồi ra đi. Và khi người mẹ không c̣n hiện diện, như chúng ta đă biết qua câu chuyện của nhiều đứa con nuôi đă đến tuổi trưởng thành, mẹ vẫn hiện diện trong những giấc mơ, những h́nh ảnh, những khao khát, và cả những lo lắng. Sự xuất hiện của mẹ trong cuộc đời con cái chúng ta thường là một trải nghiệm tuyệt vời. Khó khăn hơn cho những đứa trẻ khi mẹ ra đi, không chỉ v́ buồn khi phải nói lời tạm biệt với người lớn thân yêu, mà c̣n v́ nó đặt ra câu hỏi khó và đau đớn về lư do tại sao người mẹ lại bỏ con ḿnh ngay từ đầu. (16)

 

C̣n vấn đề đạo đức của ngân hàng tinh trùng và phương pháp điều trị thụ tinh th́ sao? Chúng dựa trên cơ sở là những người đàn ông đă tự nguyện hiến tinh trùng của ḿnh để thụ tinh, v́ vậy những người đàn ông này chắc chắn sẽ không phải chịu những cảm giác khó khăn như khi cho thuê tử cung.

    Tuy nhiên, vấn đề với các phương pháp điều trị sinh sản là chúng tạo gánh nặng mồ côi cha cho trẻ em. Những đứa trẻ được sinh ra nhân tạo có thể cảm thấy rất khó khăn nếu người mẹ cố t́nh đặt chúng vào t́nh trạng không thể biết và tiếp xúc với cha ḿnh. Tapio Puolimatka mô tả nghiên cứu của bác sĩ tâm thần Kyle Pruett của Đại học Yale về chủ đề này (Kyle Pruett: Fatherneed, New York, Broadway, 2000). Trẻ em khó có thể sống trong một loại trạng thái trung gian mà không có mối quan hệ với cha ruột của chúng:

 

Bác sĩ tâm thần Kyle Pruett của Đại học Yale (2000: 207) kết luận dựa trên nghiên cứu của ḿnh rằng những đứa trẻ được sinh ra do thụ tinh nhân tạo và lớn lên không có cha sẽ có "sự khao khát sự hiện diện thường xuyên của cha" vô độ. Nghiên cứu của ông phù hợp với các nghiên cứu về ly hôn và làm cha mẹ đơn thân làm nổi bật t́nh trạng thiếu cha tương tự. Nghiên cứu của Pruett cũng nhấn mạnh rằng những đứa trẻ được sinh ra do thụ tinh nhân tạo, không có thông tin ǵ về cha của chúng, có những câu hỏi sâu sắc và đáng lo ngại về nguồn gốc sinh học của chúng và gia đ́nh mà chúng có nguồn gốc sinh học. Những đứa trẻ này không biết cha của chúng hoặc gia đ́nh của cha chúng, và chúng cảm thấy ghê tởm khi sống trong t́nh trạng ở giữa mà không có mối quan hệ với cha ruột của chúng (Pruett 2000:204-208) (17)

 

Alana Newman tiếp tục về chủ đề tương tự. Bản thân cô được sinh ra bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo, sử dụng tinh trùng của một người hiến tặng giấu tên. Cô phản đối mạnh mẽ cách làm mà một đứa trẻ bị tước đi cơ hội thiết lập mối quan hệ với cha mẹ ruột của ḿnh và lớn lên trong sự chăm sóc của họ. Do những trải nghiệm của bản thân, cô ấy mắc phải các vấn đề về danh tính và ḷng căm thù đối với người khác giới. Trong lời khai bằng văn bản của ḿnh trước Cơ quan lập pháp California, cô ấy đă viết về chủ đề này:

 

Tôi bắt đầu từ việc thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của một người hiến tặng ẩn danh. Mặc dù ư định của mẹ tôi là tốt và bà rất yêu tôi, nhưng tôi cực lực phản đối cách làm như vậy. … Mặc dù tôn trọng các gia đ́nh khác nhau là điều nhân từ, nhưng sự tôn trọng đó đôi khi mâu thuẫn trực tiếp với quyền của trẻ em: đứa trẻ có quyền thiết lập mối quan hệ với cha mẹ ruột của ḿnh và lớn lên dưới sự chăm sóc của họ. Trẻ em có quyền không bị bán hoặc buôn bán hoặc được cho đi trừ khi cần thiết. Theo định nghĩa, mọi đứa trẻ được sinh ra bởi một người độc thân hoặc một cặp đồng tính đều bị từ chối mối quan hệ với ít nhất một trong số cha mẹ ruột của chúng, và do đó là vi phạm nhân quyền…

   … Tôi mắc phải các vấn đề về bản sắc làm mất cân bằng tinh thần, không tin tưởng và căm ghét người khác giới, cảm giác bị khách quan hóa – như thể tôi chỉ tồn tại như một món đồ chơi của người khác. Tôi cảm thấy như thể tôi là một thí nghiệm khoa học. (18)

 

Tầm quan trọng của cha mẹ đối với con cái . Các chương tŕnh truyền h́nh và các bài báo thường nói về việc trẻ em muốn t́m cha mẹ ruột mà chúng chưa bao giờ gặp mặt và người đă biến mất khỏi cuộc đời chúng. Họ khao khát t́m về cội nguồn của ḿnh và gặp lại người cha hoặc người mẹ ruột đă mất tích của họ. Điều này ngày càng trở nên phổ biến hiện nay, ví dụ như do tỷ lệ ly hôn gia tăng.

    Theo quan điểm của đứa trẻ, việc cả cha và mẹ ruột đều ở bên và quan tâm đến nhau là điều cần thiết. Điều này cũng xuất hiện trong nhiều quan sát cuộc sống thực tế. Những đứa trẻ có mối quan hệ với cha mẹ bị rạn nứt, chẳng hạn như do rượu chè, bạo lực hoặc một cuộc ly hôn thông thường, sẽ gặp phải nhiều vấn đề trong cuộc sống, điều hiếm thấy ở những đứa trẻ lớn lên trong những gia đ́nh nguyên vẹn. Một ví dụ thực tế nhỏ chỉ ra điều này. Nó cho thấy mồ côi cha, thiếu cha ở nhà, là một vấn đề hiện đại như thế nào:

 

Khi tôi nói chuyện tại một hội trại dành cho nam giới ở Hume Lake, California, tôi đă đề cập rằng một người cha trung b́nh chỉ dành ba phút thời gian chất lượng cho con ḿnh mỗi ngày. Sau cuộc họp, một người đàn ông đặt câu hỏi về thông tin của tôi.

    Anh ta mắng, "Các người chỉ nói suông thôi. Theo nghiên cứu mới nhất, một người cha trung b́nh mỗi ngày không dành cho con cái ba phút, mà là 35 giây ."

   Tôi tin anh ấy v́ anh ấy từng làm thanh tra trường học ở trung tâm California. Trên thực tế, anh ấy đă cho tôi một thống kê đáng kinh ngạc khác.

   Tại một học khu nào đó ở California có 483 học sinh trong chương tŕnh giáo dục đặc biệt. Không ai trong số những học sinh đó có cha ở nhà.

   Tại một vùng nào đó ở ngoại ô Seattle, 61% trẻ em sống không cha.

   Sự vắng mặt của một người cha là một lời nguyền ngày nay. (19) 

 

Làm thế nào để điều này liên quan đến chủ đề được thảo luận? Nói tóm lại, sự hiện diện của cả cha và mẹ ruột, t́nh yêu thương của cha mẹ dành cho nhau và tất nhiên là dành cho đứa trẻ là điều quan trọng đối với sự khỏe mạnh và phát triển của đứa trẻ. Có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng một đứa trẻ lớn lên và phát triển tốt nhất nếu được ở cùng cha mẹ ruột của ḿnh trong một gia đ́nh ít xung đột. Nếu điểm so sánh là trẻ em, những người đă trải qua cuộc ly hôn của cha mẹ hoặc gia đ́nh đơn thân, gia đ́nh mới và các mối quan hệ chung sống, th́ chúng được coi là những lựa chọn thay thế tồi tệ hơn về mặt phát triển của trẻ. Trong các mối quan hệ đồng giới, vấn đề thậm chí c̣n lớn hơn (nếu con cái có được thông qua các mối quan hệ khác giới tạm thời hoặc thông qua các phương pháp nhân tạo), bởi v́ trong đó, đứa trẻ bị tách khỏi ít nhất một bên cha hoặc mẹ ngay từ đầu cuộc đời của ḿnh. Nó chắc chắn không phải là một lựa chọn tốt cho trẻ em, như đă nêu ở trên.

    Một vài b́nh luận cho thấy tầm quan trọng của việc có cả cha và mẹ ruột trong gia đ́nh. Một người đang có ư định ly dị vợ/chồng của ḿnh nên suy nghĩ kỹ. Tất nhiên, không có cha mẹ nào là hoàn hảo, và đôi khi có thể cần phải sống xa nhau do bạo lực chẳng hạn. Tuy nhiên, đối với con cái, lựa chọn tốt nhất là cha mẹ phải thỏa thuận với nhau và học cách chấp nhận nhau:

 

David Poponoe, nhà xă hội học, Đại học Rutgers: Nghiên cứu khoa học xă hội hiếm khi đạt được kết quả chắc chắn. Tuy nhiên, trong ba thập kỷ làm việc với tư cách là một nhà khoa học xă hội, tôi đă biết được một vài tập hợp sự thật mà trọng lượng của bằng chứng là rất quan trọng đối với một bên: nh́n chung, các gia đ́nh có hai cha mẹ (ruột học) sẽ tốt hơn cho một đứa trẻ so với gia đ́nh độc thân. -cha mẹ hoặc gia đ́nh hỗn hợp. (20)

 

Nghiên cứu chỉ ra rơ ràng rằng cấu trúc gia đ́nh quan trọng đối với trẻ em và chúng được hỗ trợ tốt nhất bởi cấu trúc gia đ́nh có hai cha mẹ ruột trong hôn nhân dẫn dắt gia đ́nh và mức độ xung đột của cha mẹ thấp. Trẻ em trong các gia đ́nh đơn thân, trẻ em sinh ra từ các bà mẹ chưa lập gia đ́nh và trẻ em trong các gia đ́nh hỗn hợp hoặc chung sống có nhiều nguy cơ phát triển theo chiều hướng xấu hơn... Đó là lư do tại sao điều quan trọng đối với trẻ em là thúc đẩy các cuộc hôn nhân bền vững và ổn định giữa cha mẹ ruột. (21)

 

Nếu chúng ta được yêu cầu thiết kế một hệ thống để đảm bảo tất cả các nhu cầu cơ bản của trẻ em được đáp ứng, có lẽ chúng ta sẽ kết thúc ở một nơi nào đó, tương tự như lư tưởng có cả cha và mẹ. Về lư thuyết, loại kế hoạch này không chỉ đảm bảo rằng trẻ em có được thời gian và nguồn lực của hai người lớn, nó c̣n cung cấp một hệ thống kiểm soát và cân bằng, giúp thúc đẩy vai tṛ làm cha mẹ cao cấp. Mối quan hệ ruột thịt của cả cha và mẹ với đứa trẻ làm tăng khả năng cha mẹ có thể đồng cảm với đứa trẻ và sẵn sàng hy sinh cho đứa trẻ. Nó cũng làm giảm khả năng cha mẹ bóc lột con cái. (22)

 

Người ta đă chứng minh một cách thuyết phục rằng trẻ em không phát triển tốt, mặc dù được chăm sóc thể chất tốt nếu chúng bị giam giữ trong các cơ sở giáo dưỡng vô nhân tính, và việc xa mẹ - đặc biệt là trong những giai đoạn nhất định - rất có hại cho đứa trẻ. Hệ lụy điển h́nh của việc chăm sóc tại viện là chậm phát triển trí tuệ, thờ ơ, thoái lui và thậm chí tử vong, khi không có đủ người mẹ thay thế. (23)

 

Như đă nói, tầm quan trọng của cả cha và mẹ trong cuộc sống của con cái đă được chứng minh là rất quan trọng. Điều này được chứng minh bằng kinh nghiệm thực tế và nhiều nghiên cứu. Cha mẹ đơn thân có thể gương mẫu trong vai tṛ làm cha mẹ của họ, nhưng điều đó không thay thế được người cha/mẹ khác giới c̣n thiếu. Theo nghiên cứu, những đứa trẻ lớn lên trong gia đ́nh tan vỡ (gia đ́nh cha mẹ đơn thân, gia đ́nh mới...) có nhiều loại vấn đề sau hơn. Họ chứng minh tầm quan trọng của sự hiện diện đầy yêu thương của cả cha và mẹ ruột:

 

• Tŕnh độ học vấn và tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông thấp hơn

 

• Những cậu bé lớn lên không có cha thường dễ bị đẩy vào con đường bạo lực và phạm tội

 

• Rối loạn cảm xúc, trầm cảm và ư định tự tử phổ biến hơn ở những đứa trẻ không có cả cha lẫn mẹ trong gia đ́nh

 

• Việc sử dụng ma túy và rượu phổ biến hơn

 

• Mang thai ở tuổi vị thành niên và bị lạm dụng t́nh dục phổ biến hơn

 

Làm thế nào để những đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi các cặp đồng tính luyến ái xếp hạng trong bối cảnh này?

    Nói tóm lại, chúng có những vấn đề giống như những đứa trẻ khác đến từ những mối quan hệ gia đ́nh tan vỡ. Bảng sau đây, liên quan đến nghiên cứu của Sotirios Sarantokis người Úc về chủ đề này (22), đưa ra một số dấu hiệu về chủ đề này. Nghiên cứu mà ông chuẩn bị vào năm 1996 là nghiên cứu lớn nhất so sánh kết quả phát triển của trẻ em cho đến năm 2000. Nghiên cứu này có tính đến đánh giá của chính cha mẹ, kết quả học tập và đánh giá của giáo viên về sự phát triển của trẻ:

 

thành tựu ngôn ngữ

Đă lập gia đ́nh 7,7

Gia đ́nh sống thử 6,8

Gia đ́nh đồng tính 5,5

thành tích toán học

Đă lập gia đ́nh 7,9

Gia đ́nh sống thử 7,0

Gia đ́nh đồng tính 5,5

giáo dục khoa học xă hội

Gia đ́nh kết hôn 7,3

Gia đ́nh sống thử 7,0

Gia đ́nh đồng tính 7,6

sở thích thể thao

Đă lập gia đ́nh 8,9

Gia đ́nh sống thử 8,3

Gia đ́nh đồng tính 5,9

ḥa đồng

Đă lập gia đ́nh 7,5

Gia đ́nh sống thử 6,5

Gia đ́nh đồng tính 5,0

Thái độ đối với việc học

Đă lập gia đ́nh 7,5

Gia đ́nh sống thử 6,8

Gia đ́nh đồng tính 6,5

Mối quan hệ phụ huynh – nhà trường

Đă lập gia đ́nh 7,5

Gia đ́nh sống thử 6,0

Gia đ́nh đồng tính 5,0

Hỗ trợ làm bài tập về nhà

Đă lập gia đ́nh 7,0

Gia đ́nh sống thử 6,5

Gia đ́nh đồng tính 5,5

 

 

 

Một nghiên cứu tương tự khác được thực hiện bởi giáo sư xă hội học Mark Regnerus. Nó kiểm tra ảnh hưởng của cấu trúc gia đ́nh đối với trẻ em. Ưu điểm của nghiên cứu là nó dựa trên lấy mẫu ngẫu nhiên và một mẫu lớn (15.000 thanh niên Mỹ). Ngoài ra, mẫu được mở rộng bằng cách bao gồm cả các hộ gia đ́nh mà một trong những người trưởng thành đôi khi có quan hệ t́nh cảm đồng giới. Nghiên cứu đă được công bố trong Nghiên cứu Khoa học Xă hội, ấn phẩm xă hội học hàng đầu. Nghiên cứu này cho thấy con cái của các cặp đồng tính luyến ái có nhiều vấn đề về cảm xúc và xă hội hơn đáng kể so với những đứa trẻ lớn lên cùng cha mẹ ruột. Robert Oscar Lopez, người đă lớn lên với một người mẹ đồng tính nữ và bạn đời là phụ nữ của bà, đă nhận xét về nghiên cứu của Regnerus:

 

Nghiên cứu của Regnerus đă xác định 248 trẻ em trưởng thành có cha mẹ có mối quan hệ lăng mạn với một người cùng giới. Khi những đứa trẻ trưởng thành này có cơ hội đánh giá lại thời thơ ấu của ḿnh một cách thẳng thắn từ góc độ trưởng thành, chúng đă đưa ra những câu trả lời không phù hợp lắm với yêu sách b́nh đẳng vốn có trong chương tŕnh hôn nhân trung lập về giới. Tuy nhiên, những kết quả này được hỗ trợ bởi một điều quan trọng trong cuộc sống, đó là lẽ thường: Thật khó để lớn lên khác với những người khác, và những khó khăn này làm tăng nguy cơ trẻ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh và chúng sẽ tự điều trị bằng rượu và các dạng hành vi nguy hiểm khác. Mỗi người trong số 248 người được phỏng vấn chắc chắn có câu chuyện con người của riêng họ với nhiều yếu tố phức tạp. Như câu chuyện của chính tôi, những câu chuyện của 248 người này rất đáng kể. Phong trào đồng tính luyến ái làm mọi thứ có thể để đảm bảo không ai lắng nghe họ. (25)

 

Không có ǵ ngạc nhiên khi con cái của các cặp đồng tính luyến ái gặp vấn đề. Điều tương tự cũng xảy ra với tất cả những đứa trẻ đến từ những gia đ́nh tan vỡ. Họ gặp nhiều vấn đề trong cuộc sống hơn những đứa trẻ được vinh dự lớn lên trong một gia đ́nh ruột thịt nguyên vẹn. Ngoài ra, văn hóa đồng tính luyến ái có vấn đề đối với trẻ em, ví dụ như v́ những lư do sau. Họ mang đến sự bất ổn cho cuộc sống của trẻ em:

 

• Người đồng tính có nhiều mối quan hệ lỏng lẻo hơn. Điều này đặc biệt đúng đối với những người đồng tính nam, những người mà theo một nghiên cứu (Mercer et al 2009) có quan hệ t́nh dục nhiều gấp 5 lần so với những người đàn ông dị tính.

 

• Phụ nữ đồng tính luyến ái có đặc điểm là thời gian quan hệ ngắn. Tỷ lệ phần trăm khác biệt của các cặp vợ chồng nữ cao hơn đáng kể so với các cặp nam. Hơn nữa, so với các cặp đôi khác giới, tỷ lệ chênh lệch cao hơn đáng kể. Điều này cũng mang đến sự bất ổn cho cuộc sống của trẻ.

 

• Khi sự thay đổi của các cặp vợ chồng cao và ít nhất một trong số những người lớn không phải là cha mẹ ruột của đứa trẻ, th́ nguy cơ lạm dụng t́nh dục sẽ tăng lên. Một nghiên cứu do Regnerus thực hiện cho thấy chỉ 2% trẻ em được nuôi dưỡng bởi cha và mẹ ruột cho biết chúng đă từng bị đụng chạm t́nh dục, trong khi 23% trẻ em được nuôi dưỡng bởi người mẹ đồng tính nữ cho biết chúng đă từng trải qua điều tương tự. Điều tương tự ít phổ biến hơn ở những người đồng tính luyến ái nam so với các cặp đôi nữ.

 

• Như đă biết, nhiều nhà hoạt động phong trào đồng tính luyến ái đă phản đối và vu khống những hoạt động đó là những người tự nguyện muốn thoát khỏi lối sống đồng tính luyến ái. Họ đă tấn công nó cho rằng nó có hại.

    Tuy nhiên, lối sống của nhiều người đồng tính thực sự có hại và rủi ro do quan hệ t́nh dục nhiều lần. Đặc biệt, nam giới có nguy cơ cao mắc các bệnh lây truyền qua đường t́nh dục và các bệnh khác lây truyền từ người này sang người khác. Trong số những thứ khác, AIDS là một vấn đề. Điều này có thể rút ngắn cuộc sống của chính họ một cách đáng kể, nhưng nó cũng có thể lấy đi một phụ huynh khác của đứa trẻ. Điều này cũng khiến cuộc sống của trẻ trở nên bất ổn. Trích dẫn sau đây nói thêm về chủ đề này. Đó là một nghiên cứu do Tiến sĩ Robert S. Hogg dẫn đầu. Nhóm của ông đă thu thập dữ liệu về những người đồng tính nam và lưỡng tính ở khu vực Vancouver từ năm 1987-1992. Nghiên cứu xem xét ảnh hưởng của bệnh tật, chứ không phải xu hướng, đối với tuổi thọ trung b́nh. May mắn thay, vắc-xin đă được phát triển từ thời xa xưa,

 

Xác suất của những người đàn ông song tính và đồng tính luyến ái sống từ 20 đến 65 tuổi dao động từ 32 đến 59%. Những con số này thấp hơn đáng kể so với những người đàn ông khác nói chung, những người có 78% cơ hội sống từ 20 đến 65 tuổi. Kết luận: Ở một thành phố lớn của Canada, tuổi thọ của nam giới đồng tính nam và song tính ở độ tuổi 20 là 8-20 năm ít hơn so với những người đàn ông khác. Nếu xu hướng tỷ lệ tử vong tương tự tiếp tục, theo ước tính của chúng tôi, gần một nửa số nam giới đồng tính nam và lưỡng tính hiện nay ở độ tuổi 20 sẽ không thể sống đến 65 tuổi. Ngay cả theo những giả định tự do nhất, những người đồng tính nam và lưỡng tính ở trung tâm đô thị này hiện có tuổi thọ tương đương với tuổi thọ của tất cả nam giới ở Canada vào năm 1871. (26)

 

NGƯỜI DÂN PHẢN ỨNG VỚI ĐIỀU NÀY NHƯ THẾ NÀO?  Như đă nói, một phụ huynh đơn thân đồng tính luyến ái có thể cố gắng hết sức trong vai tṛ làm cha mẹ của ḿnh và cố gắng trở thành cha mẹ tốt của con ḿnh. Bạn không thể phủ nhận điều đó.

    Tuy nhiên, đó cũng là một thực tế rằng cấu trúc gia đ́nh quan trọng. Nhiều nghiên cứu, kinh nghiệm sống thực tế và lẽ thường cho thấy rằng tốt nhất là trẻ em nên lớn lên trong sự đồng hành và chăm sóc yêu thương của chính cha mẹ ruột của ḿnh. Tất nhiên, điều này không phải lúc nào cũng xảy ra một cách hoàn hảo bởi v́ cha mẹ có sai sót, nhưng nói chung, trẻ em sẽ làm tốt hơn nếu cả cha và mẹ ruột đều có mặt.

    Vậy những người ủng hộ hôn nhân trung lập về giới tính phản ứng thế nào trước thông tin này, hay nó đặt ra câu hỏi về lối sống đồng giới? Nó thường biểu hiện dưới dạng các phản ứng sau:

 

Các cáo buộc về kỳ thị đồng tính và ngôn từ kích động thù địch là phổ biến. Nhiều người đưa ra lời buộc tội này, nhưng không nghĩ rằng ngay cả khi chúng ta không đồng ư về mọi thứ, điều đó không có nghĩa là ghét người khác. Những người đưa ra lập luận không thể biết được suy nghĩ bên trong của đối phương và có thể không hiểu rằng bất chấp sự bất đồng, người kia vẫn có thể được yêu, hoặc ít nhất là cố gắng yêu. Sự khác biệt này nên được hiểu.

    Mặt khác, thông thường những người ủng hộ nhiệt t́nh nhất hôn nhân trung lập về giới tính sẽ phỉ báng và bôi nhọ những người có cách nh́n sự việc khác với họ. Mặc dù họ tuyên bố đại diện cho t́nh yêu, nhưng họ không hành động v́ điều đó. Nếu bản thân bạn là một kẻ vu khống như vậy th́ bạn được lợi ích ǵ từ việc đó hay liệu bạn có được sự đồng t́nh của mọi người về lối sống của ḿnh hay không?

 

Tố cáo đổ lỗi. Trước đó, người ta đă nói rằng cấu trúc gia đ́nh quan trọng như thế nào đối với hạnh phúc của trẻ em. Người ta đă phát hiện ra rằng t́nh trạng mang thai ở tuổi vị thành niên, tội phạm, lạm dụng chất gây nghiện và các vấn đề về t́nh cảm phổ biến hơn ở những gia đ́nh không có ít nhất một trong hai cha mẹ ruột. Điều này cũng có tác động về mặt tài chính, khi chi phí xă hội của xă hội tăng lên. Ví dụ, một nghiên cứu được thực hiện tại Hoa Kỳ vào năm 2008 cho thấy ly hôn và trẻ em sinh ngoài giá thú khiến người nộp thuế phải trả 112 tỷ đô la hàng năm (Girgis et al 2012:46). Tương tự, Etelä-Suomen sanomat đă báo cáo vào ngày 31 tháng 10 năm 2010: Dịch vụ chăm sóc tại cơ sở dành cho trẻ em và thanh thiếu niên sẽ sớm tiêu tốn một tỷ đồng, Các vấn đề của trẻ em đă trở nên tồi tệ hơn kể từ đầu những năm 1990... Chi phí chăm sóc tại cơ sở cho một đứa trẻ lên tới 100.000 euro mỗi năm .... Ngoài ra, Aamulehti đă báo cáo vào ngày 3 tháng 3 năm 2013: Một thanh niên biên có giá 1,8 triệu. Nếu thậm chí một người được đưa trở lại xă hội, kết quả là tích cực.

    Làm thế nào để những người khác phản ứng với thông tin này? Họ có thể cho rằng hiện nay cha mẹ đơn thân, cha mẹ đồng tính luyến ái hoặc những người thất bại trong hôn nhân đang bị đổ lỗi.

    Tuy nhiên, bạn không cần phải nh́n nó từ quan điểm đó. Ngoài ra, mọi người đều có thể nghĩ về cách sửa chữa mọi thứ để làm cho chúng tốt hơn. Ví dụ, nếu ai đó đang có ư định rời bỏ vợ/chồng và gia đ́nh của ḿnh, th́ họ nên suy nghĩ kỹ, v́ điều đó có thể ảnh hưởng sâu sắc đến con cái và tương lai của chúng. (Thông thường chỉ những đứa trẻ đă chứng kiến ​​và trải qua nhiều lần bạo lực mới có thể cảm thấy nhẹ nhơm khi thấy cha mẹ chia tay.) Hoặc nếu một người đồng tính luyến ái đang có ư định sinh con bằng các phương pháp nhân tạo, anh ta nên nghĩ xem đứa trẻ sẽ cảm thấy thế nào khi sống thiếu cha hoặc mẹ. một người mẹ.

    Thông tin về tầm quan trọng của cấu trúc gia đ́nh đối với trẻ em phần nào giống với thông tin về lợi ích của việc tập thể dục hoặc sự nguy hiểm của việc hút thuốc đối với sức khỏe. Thông tin này là có, nhưng không phải ai cũng phản ứng với nó. Tuy nhiên, nếu chúng ta làm theo thông tin có sẵn cho mọi người, nó sẽ cải thiện sức khỏe thể chất của chúng ta.

 

"Nghiên cứu rác" . Mặc dù ư thức thực tế và kinh nghiệm sống hàng ngày ủng hộ rằng sẽ tốt cho trẻ em nếu chúng được phép lớn lên trong gia đ́nh có cả cha lẫn mẹ ruột, nhưng một số người ủng hộ nhiệt t́nh nhất hôn nhân phân biệt giới tính lại cố gắng phủ nhận điều này. Họ cho rằng sự hiện diện của cha hoặc mẹ ruột không quan trọng, mà là một người trưởng thành khác có thể thay thế sự hiện diện của cha hoặc mẹ đă mất tích. Ở đây họ trích dẫn các nghiên cứu cụ thể ủng hộ quan điểm này. Đồng thời, giải thích rằng tất cả những thông tin trước đây về ư nghĩa của cấu trúc gia đ́nh đều là thông tin “nghiên cứu vụn vặt”, không khoa học. Đó là lư do tại sao họ nghĩ rằng nó nên bị từ chối.

    Tuy nhiên, nếu bạn nh́n vào các nghiên cứu mà những người ủng hộ hôn nhân trung lập về giới tính đề cập đến, th́ chúng sẽ đáp ứng các dấu hiệu của thông tin phản khoa học. Lư do là ví dụ như các yếu tố sau:

 

Mẫu nghiên cứu nhỏ , trung b́nh chỉ 30-60 người được phỏng vấn. Kích thước mẫu nhỏ không thể cung cấp kết quả có ư nghĩa thống kê. Để thực hiện khái quát hóa, kích thước mẫu phải nhiều.

 

Các nhóm so sánh bị thiếu hoặc họ là những gia đ́nh tan vỡ. Vấn đề với nhiều nghiên cứu là họ hoàn toàn không có nhóm so sánh các cặp đôi khác giới. Hoặc nếu có một nhóm so sánh, th́ đó thường là gia đ́nh đơn thân, tái lập hoặc chung sống. Hôn nhân của cha mẹ ruột, được biết là thuận lợi nhất cho sự phát triển của trẻ em, hiếm khi được sử dụng như một nhóm so sánh. Người ta đă nói trước đó rằng trẻ em trong các gia đ́nh tan vỡ có nhiều vấn đề hơn đáng kể.

 

Từ 59 nghiên cứu được APA sử dụng, 26 nghiên cứu hoàn toàn không có nhóm so sánh bao gồm các cặp đôi khác giới tính. 33 nghiên cứu có nhóm so sánh như vậy, nhưng trong 13 nghiên cứu nhóm so sánh là các gia đ́nh đơn thân. Trong 20 nghiên cứu c̣n lại, không rơ nhóm so sánh là cha mẹ đơn thân, cặp vợ chồng sống thử, gia đ́nh mới hay cặp vợ chồng được h́nh thành bởi cha mẹ ruột của đứa trẻ. Chỉ riêng sự thiếu sót này đă khiến cho việc khái quát hóa trở nên khó khăn, v́ Brown (2004: 364) đă tuyên bố trong nghiên cứu của ḿnh khi phân tích 35.938 trẻ em Mỹ và cha mẹ của chúng rằng bất kể nguồn lực tài chính và nuôi dạy con cái như thế nào, những người trẻ tuổi (12-17 tuổi) có kết quả thấp hơn trong các gia đ́nh có các cặp vợ chồng chung sống. hơn trong các gia đ́nh có cha mẹ ruột kết hôn. (27)

 

Không lấy mẫu ngẫu nhiên và nhận thức được tầm quan trọng của các cuộc phỏng vấn . Khi các mẫu nhỏ, một vấn đề khác là một số mẫu không dựa trên lấy mẫu ngẫu nhiên mà những người được phỏng vấn được tuyển chọn từ các diễn đàn của các nhà hoạt động. Những người được phỏng vấn có thể nhận thức được ư nghĩa chính trị của nghiên cứu và do đó đưa ra câu trả lời "thích hợp". Bên cạnh đó, ai muốn nói tiêu cực về hạnh phúc của con cái họ hoặc một đứa trẻ về cha mẹ của chúng, những người mà chúng cần có sự chấp thuận của họ?

    Theo nghĩa này, một số nghiên cứu trong lĩnh vực này gợi nhớ đến các nghiên cứu do Alfred Kinsey chuẩn bị từ nhiều thập kỷ trước. Chúng không dựa trên lấy mẫu ngẫu nhiên, nhưng một phần quan trọng trong kết quả nghiên cứu của Kinsey đến từ những kẻ phạm tội t́nh dục, hiếp dâm, ma cô, ấu dâm, khách hàng của quán bar đồng tính và những người lệch lạc t́nh dục khác. Kết quả của Kinsey được cho là đại diện cho người Mỹ b́nh thường, nhưng các nghiên cứu sau đó đă đưa ra kết quả hoàn toàn khác và bác bỏ thông tin do Kinsey đưa ra. Tiến sĩ Judith Reisman đă viết về chủ đề này trong cuốn sách đầy ảnh hưởng của bà "Kinsey: Tội ác & Hậu quả" (1998).

 

T́m kiếm mục đích? Khi việc phá thai cuối cùng đă được hợp pháp hóa, người ta cho rằng việc phá thai bất hợp pháp đă được thực hiện với số lượng đáng kể. Ví dụ, người ta cho rằng 30.000 ca phá thai bất hợp pháp diễn ra ở Phần Lan mỗi năm, mặc dù sau khi luật thay đổi, con số này chỉ c̣n khoảng 10.000. Điều ǵ gây ra sự khác biệt lớn như vậy? Một số người ủng hộ phá thai sau đó đă công khai thừa nhận rằng họ đă phóng đại các con số để gây ảnh hưởng đến các nhà lập pháp và dư luận.

    Người ta có thể đặt câu hỏi liệu có định hướng mục tiêu tương tự trong nhiều nghiên cứu liên quan đến hôn nhân phân biệt giới tính hay không. Một số đă thừa nhận rằng mục tiêu như vậy đă xảy ra. Các nhà nghiên cứu đă bỏ qua những khác biệt rơ ràng có thể thấy được v́ họ muốn chỉ ra rằng cấu trúc gia đ́nh không liên quan đến sự phát triển của trẻ em. Nhận xét sau đây đề cập đến điều này:

 

Stacey và Biblarz (2001: 162) thừa nhận rằng bởi v́ các nhà nghiên cứu muốn chứng minh rằng việc nuôi dạy con cái của các cặp đồng giới cũng tốt như việc nuôi dạy con cái của các cặp dị tính, nên các nhà nghiên cứu nhạy cảm xử lư sự khác biệt giữa các h́nh thức gia đ́nh này một cách thận trọng. Nói cách khác, mặc dù trên thực tế, các nhà nghiên cứu đă t́m thấy sự khác biệt trong cách nuôi dạy con cái của những người trưởng thành sống thử, nhưng họ đă phớt lờ chúng, hạ thấp tầm quan trọng của chúng hoặc không tiến hành nghiên cứu sâu hơn về sự khác biệt. Xu hướng tính dục của cha mẹ ảnh hưởng đến con cái của họ nhiều hơn những ǵ các nhà nghiên cứu đưa ra (Stacey & Biblarz 2001: 167). (28)

 

Chúng tôi cũng biết rằng phần lớn các nghiên cứu được thực hiện bởi một vài nhà nghiên cứu. Đôi khi, họ đă hợp tác. Hơn nữa, một số người trong số họ có nguồn gốc đồng tính luyến ái hoặc họ tích cực ủng hộ hôn nhân phi giới tính. Đây là một cơ sở kém cho nghiên cứu khách quan.

 

Tác động của quan điểm của cá nhân các nhà nghiên cứu được nhấn mạnh bởi v́ một vài nhà nghiên cứu đă thực hiện một phần lớn trong số 60 nghiên cứu được đề cập. Charlotte J. Patterson là đồng tác giả của 12 trong số 60 nghiên cứu đó, Henny Bos là 9, Nanette Gartrell là 7, Judith Stacey và Abbie Goldberg là đồng tác giả của 4 nghiên cứu và một số người khác là đồng tác giả của 3 nghiên cứu. Họ thường cùng nhau nghiên cứu. Điều này làm giảm số lượng nghiên cứu độc lập và tăng ảnh hưởng của thành kiến ​​của các nhà nghiên cứu. Điều này giải thích tại sao các tuyên bố tương tự được lặp lại trong một số nghiên cứu.

    Charlotte Patterson là giáo sư tâm lư học tại Đại học Virginia. Ngoài công việc nghiên cứu sâu rộng của ḿnh, cô ấy c̣n có kinh nghiệm trực tiếp về cách nuôi dạy con cái trong một gia đ́nh có cặp đồng giới: anh ấy đă nuôi dạy ba đứa con trong cuộc hôn nhân 30 năm với Deborah Cohn. Nanette Gartrell, cùng với vợ là Dee Mosbacher, đă tích cực bảo vệ quyền của những người đồng tính luyến ái và là nhà nghiên cứu chính trong dự án nghiên cứu Nghiên cứu gia đ́nh đồng tính nữ theo chiều dọc quốc gia Hoa Kỳ (NLLFS) do một số tổ chức đồng tính luyến ái nổi tiếng tài trợ. Henny Bos là giáo sư giáo dục tại Đại học Amsterdam và đă tham gia cùng với Nanette Gartrell trong dự án nghiên cứu NLLFS. Abbie Goldberg là giáo sư tâm lư học tại Đại học Clark ở Worcester, Massachusetts. Cô ấy nói rằng ngay từ khi bắt đầu công việc nghiên cứu của ḿnh, cô ấy đă gặp phải vấn đề là "các tập quán xă hội và phương tiện truyền thông đại chúng phản ánh cái gọi là chuẩn mực chi phối, không c̣n chi phối nữa (cụ thể là cấu trúc gia đ́nh hạt nhân dị tính)". Trong một số ư kiến ​​chuyên gia của ḿnh, Judith Stacey đă bảo vệ hôn nhân trung lập về giới tính, mặc dù cô ấy cho rằng lựa chọn tốt nhất là băi bỏ toàn bộ thể chế hôn nhân. Theo ư kiến ​​​​của cô, bản thân thể chế hôn nhân làm tăng sự bất b́nh đẳng. (29) mặc dù cô ấy coi lựa chọn tốt nhất là băi bỏ toàn bộ thể chế hôn nhân. Theo ư kiến ​​​​của cô, bản thân thể chế hôn nhân làm tăng sự bất b́nh đẳng. (29) mặc dù cô ấy coi lựa chọn tốt nhất là băi bỏ toàn bộ thể chế hôn nhân. Theo ư kiến ​​​​của cô, bản thân thể chế hôn nhân làm tăng sự bất b́nh đẳng. (29)

 

t́nh yêu . Khi Đức quốc xă bảo vệ cái chết êm dịu, một trong những lư do là ḷng trắc ẩn. Người ta giải thích rằng không phải cuộc sống con người nào cũng đáng sống, và đó là lư do tại sao, trong số những thứ khác, các bộ phim tuyên truyền được thực hiện để cố gắng bảo vệ vấn đề này. Nhân danh ḷng trắc ẩn, các quyết định đă được đưa ra mà cuối cùng dẫn đến những hậu quả khủng khiếp.

   Ngày nay, nhiều thứ vẫn được bảo vệ nhân danh t́nh yêu. Tất nhiên, việc bênh vực t́nh yêu thương không có ǵ là sai, nhưng trong thực tế, nó thường là lớp mặt nạ cho sự ích kỷ, đặc biệt là sự ích kỷ của người lớn đối với trẻ nhỏ. Khi những trào lưu mới xuất hiện trong xă hội trong những thập kỷ gần đây, nhiều người trong số họ liên quan chính xác đến trẻ em. Trẻ em buộc phải trải nghiệm hậu quả của những lựa chọn của người lớn. Cuộc cách mạng t́nh dục, phá thai và hôn nhân phi giới tính là ba ví dụ:

 

• Ư tưởng của cuộc cách mạng t́nh dục là quan hệ t́nh dục mà không cần hôn nhân cũng được. Vấn đề được bảo vệ bằng cách nói rằng "không có ǵ sai nếu cả hai người yêu nhau".

    Điều ǵ đă xảy ra và hậu quả sẽ ra sao nếu một đứa trẻ được sinh ra trong hoàn cảnh mà cha mẹ không cam kết với nhau từ trước đó?

    Tất nhiên, hạnh phúc nhất là lựa chọn mà cha mẹ ngay lập tức gắn bó với nhau và đứa trẻ được sinh ra trong một mái nhà có cả cha lẫn mẹ.

    Tuy nhiên, thực tế thường khác nhau. Cha mẹ có thể phá thai hoặc họ có thể ly thân và đứa trẻ sống dưới sự chăm sóc của một người mẹ đơn thân (hoặc một người cha đơn thân). Do đó, tự do t́nh dục, có thể được bảo vệ bằng t́nh yêu, không phải là một lựa chọn tốt cho đứa trẻ.

 

• Phá thai xuất hiện sau cuộc cách mạng t́nh dục. Ngay cả ngày nay, những người bảo vệ vấn đề này không thể đưa ra lời giải thích tại sao một đứa trẻ trong bụng mẹ lại có các bộ phận cơ thể (mắt, mũi, miệng, chân, tay) giống như một đứa trẻ sơ sinh hoặc chẳng hạn như một đứa trẻ sơ sinh. Đứa trẻ 10 tuổi, sẽ ít nhân tính hơn. Chỉ trú trong thai mẹ không nên là cơ sở.

 

• Hôn nhân không phân biệt giới tính – chủ đề của bài viết này – cũng có thể là vấn đề đối với trẻ em. Bởi v́ nếu trẻ em có được sự kết hợp như vậy thông qua các phương pháp nhân tạo hoặc các mối quan hệ khác giới tạm thời, điều đó sẽ khiến đứa trẻ rơi vào t́nh thế thiếu vắng ít nhất một trong số cha mẹ ruột của ḿnh ở nhà.


 

References:

 

1. Wendy Wright: French Homosexuals Join Demonstration Against Gay Marriage, Catholic Family & Human Rights Institute, January 18, 2013

2. Liisa Tuovinen, ”Synti vai siunaus?” Inhimillinen tekijä. TV2, 2.11.2004, klo 22.05.

3. Bill Hybels: Kristityt seksihullussa kulttuurissa (Christians in a Sex Crazed Culture), p. 132

4. Espen Ottosen: Minun homoseksuaalit ystäväni (”Mine homofile venner”), p. 104

5. Espen Ottosen: Minun homoseksuaalit ystäväni (”Mine homofile venner”), p. 131

6. Lesboidentiteetti ja kristillisyys, p. 87, Seta julkaisut

7. Sinikka Pellinen: Homoseksuaalinen identiteetti ja kristillinen usko, p. 77, Teron kertomus

8. Ari Puonti: Suhteesta siunaukseen, p. 76,77

9. John Corvino: Mitä väärää on homoseksualisuudessa?, p. 161

10. Tapio Puolimatka: Seksuaalivallankumous, perheen ja kulttuurin romahdus, p. 172

11. Jean-Pierre Delaume-Myard: Homosexuel contre le marriage pour tous (2013), Deboiris, p. 94

12. Jean-Pierre Delaume-Myard: Homosexuel contre le marriage pour tous (2013), Deboiris, p. 210

13. Jean-Pierre Delaume-Myard: Homosexuel contre le marriage pour tous (2013), Deboiris, p. 212

14. Jean-Marc Guénois: “J’ai été élevé par deux femmes”, Le Figaro 1.10.2013

15. Tapio Puolimatka: Lapsen ihmisoikeus, oikeus isään ja äitiin, p. 28,29

16. Frank Litgvoet: “The Misnomer of Motherless Parenting”, New York Times 07/2013

17. Tapio Puolimatka: Lapsen ihmisoikeus, oikeus isään ja äitiin, p. 43,44

18. Alana Newman: Testimony of Alana S. Newman. Opposition to AB460. To the California Assembly Committee on Health, April 30, 2013.

19. Edwin Louis Cole: Miehuuden haaste, p. 104

20. David Popenoe (1996): Life without Father: Compelling New Evidence That Fatherhood and Marriage Are Indispensable for the Good of Children and Society. New York: Free Press.

21. Kristin Anderson Moore & Susan M. Jekielek & Carol Emig:” Marriage from a Child’s Perspective: How Does Family Structure Affect Children and What Can We do About it”, Child Trends Research Brief, Child Trends, June 2002, http:www. childrentrends.org&/files/marriagerb602.pdf.)

22. Sara McLanahan & Gary Sandefur: Growing Up with a Single Parent: What Hurts, What Helps, p. 38

23. Margaret Mead: Some Theoretical Considerations on the Problem of Mother-Child Separation, American Journal of Orthopsychiatry, vol. 24, 1954, p. 474

24. Sotirios Sarantakos: Children in Three Contexts: Family, Education and Social Development, Children Australia 21, 23-31, (1996)

25. Robert Oscar Lopez: Growing Up With Two Moms: The Untold Cgildren’s View, The Public Discourse, Augustth, 2012

26. International Journal of Epidemiology Modelling the Impact of HIV Disease on Mortality in Gay and Bisexual men; International Journal of Epidemiology; Vol. 26, No 3, p. 657

27. Tapio Puolimatka: Lapsen ihmisoikeus, oikeus isään ja äitiin, p. 166

28. Tapio Puolimatka: Lapsen ihmisoikeus, oikeus isään ja äitiin, p. 176

29. Tapio Puolimatka: Lapsen ihmisoikeus, oikeus isään ja äitiin, p. 178,179

 


 


 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

Jesus is the way, the truth and the life

 

 

  

 

Grap to eternal life!

 

Other Google Translate machine translations:

 

Hàng triệu năm / khủng long / sự tiến hóa của con người?
tiêu diệt khủng long
Khoa học trong ảo tưởng: lư thuyết vô thần về nguồn gốc và hàng triệu năm
Khủng long sống khi nào?

Lịch sử Kinh thánh
Lũ lụt

Đức tin Kitô giáo: khoa học, nhân quyền
Kitô giáo và khoa học
Đức tin Kitô giáo và nhân quyền

Tôn giáo phương Đông / Thời đại mới
Phật, Phật giáo hay Chúa Giêsu?
Luân hồi có thật không?

đạo Hồi
Những tiết lộ và cuộc đời của Muhammad
Thờ thần tượng trong Hồi giáo và ở Mecca
Kinh Koran có đáng tin cậy không?

câu hỏi đạo đức
Được giải thoát khỏi đồng tính luyến ái
Hôn nhân không phân biệt giới tính
Phá thai là hành vi phạm tội
An tử và dấu hiệu của thời đại

sự cứu rỗi
Bạn có thể được cứu